A - BÚT KÝ NGÔN NGỮ
A (tập 3)
PHẦN VII
TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN
1. TÓM TẮT NGÔN NGỮ A
Ngôn ngữ A là một phương pháp luận nhằm chứng minh bản chất sự thiện và ác, cũng
như chứng minh từ khi nào bản chất nhân cách của con người được hình thành và
biến dạng ra sao.
Bằng một phương pháp chứng minh cố gắng hết sức khách quan và khoa học, ngôn
ngữ A cho thấy tất cả bắt đầu từ hiện tượng vận động của trung tâm vô thức tồn
tại trong trí não của mỗi con người. Từ sự khám phá ra nguyên tắc vận động của
trung tâm vô thức đó, ngôn ngữ A đi đến kết luận, bản chất con người sinh ra
vốn đã thiện và đã có bản năng muốn hướng cuộc sống về một giá trị Hạnh Phúc tuyệt
đối.
Tuy nhiên, do nguyên tắc tiến hóa theo trình tự phát triển khả năng nhận thức
của con người đối với hiện tượng ý thức nói chung và hiện tượng vô thức nói
riêng, đã gây cho con người sự nhầm lẫn trong nhận thức ban đầu về ý nghĩa, mục
đích và giá trị sự sống của con người là gì. Sự sai lầm ban đầu đó dẫn đến hậu
quả, con người đã không xây dựng được một cuộc sống thành công và Hạnh Phúc
trọn vẹn như mong đợi.
Nhìn chung, những nguyên nhân được con người tìm thấy như là thủ phạm chính gây
ra những thất bại trên, phần lớn được con người qui cho cái ác và sự đền tội,
để làm cơ sở lý giải về các hiện tượng nhân quả trong cuộc sống. Người gây ra
điều ác thì bị gọi là người ác, người xấu, và tất yếu sẽ phải bị đền tội.
Lịch sử nhân loại đã đi tìm nhiều phương pháp để lý giải về hiện tượng cái ác
của con người, nhưng kết quả đến nay vẫn như chưa có được một kết luận thật
hoàn chỉnh. Khi sự lý giải về nguyên nhân của cái ác chưa có kết quả thì tất
yếu các biện pháp tiêu trừ cái ác, xây dựng cái toàn thiện trong quan hệ con
người với nhau ắt phải còn gặp nhiều khó khăn. Vấn đề đó dẫn đến hậu quả, sự
sống của con người xã hội văn minh hiện đại vẫn tiếp tục phải còn bị chịu nhiều
sự bất công và đau khổ, như là một hệ quả tất yếu trong qui luật phát triển tư
duy của giống loài Người vậy.
Cũng theo hướng tìm tòi trên, ngôn ngữ A đã đi đến kết luận: chính THÓI QUEN
của con người là nguyên nhân chính đã biến sự sống con người trở nên sai lầm,
và bị mang vào người cái tính ác bất đắc dĩ ấy. Nếu con người giờ đây biết tạo
được khả năng làm chủ “thói quen”, thì tin rằng con người sẽ làm chủ được cái
thiện và cái ác, tức là làm chủ được tương lai của phát triển của xã hội loài
người vậy.
Tuy nhiên, đối với con người, để sửa đổi thói quen theo ý muốn là một việc làm
không phải dễ; bởi trong sự sống con người có những thói quen có thể ý thức
được, và cũng có những thói quen không thể ý thức trực tiếp được; có những thói
quen sửa được và cũng có những thói quen rất khó sửa. Thói quen không thể ý
thức được là những thói quen đã nằm bên trong các vô thức của con người, nên
chúng là những thói quen rất khó sửa. Vậy ngôn ngữ A là một phương pháp luận,
nhằm giúp chứng minh và tìm cách sửa đổi các thói quen khó sửa vô hình kia của
con người. Lời giải cho vấn đề được bắt đầu từ sự chứng minh thói quen lớn nhất
của con người được tính từ thói quen “cảm xúc” và “ngôn ngữ”, phương tiện chính
trong các hiện tượng giao tiếp giữa các thế hệ con người với nhau. Nhưng trong đó,
chỉ có ngôn ngữ là nằm trong khả năng chủ động trực tiếp và chủ quan của con
người, trong mục đích dùng nó làm phương tiện hay như một công cụ để khắc phục
các thói quen sai lầm và rất khó sửa trong vô thức của con người
Bản chất của ngôn ngữ là một hiện tượng có tính thời gian và không gian, do đó
thay đổi thói quen ngôn ngữ là thay đổi mọi kinh nghiệm nhận thức và kiến thức
của con người có được, từ nhiều nguồn tích lũy của thời gian và không gian tích
tụ lại. Những kinh nghiệm nhận thức chung đó, giờ đây đã được con người ngày
nay biến thành như những thói quen trong phong tục tập quán, trong cách suy
nghĩ, trong lời ăn tiếng nói, trong hành vi quan hệ, v.v... và trong mọi hoạt
động sinh tồn khác của mỗi con người.
Để chủ động làm thay đổi được những thói quen đa dạng trên, con người phải
chứng minh thành công xem trong số đó, thế nào là sai, thế nào là đúng, v.v...
để cuối cùng đúc kết ra được một hệ thống các thói quen mới hoàn thiện hơn, để
làm đối trọng thay thế cho những thói quen sai lầm kia. Hệ thống thói quen mới
đó được đúc kết thành một hệ ngôn ngữ mới, mang tên “hệ Ngôn Ngữ A” mà chúng ta
đang được giới thiệu đây.
Như vậy, ngôn ngữ A là chiếc chìa khóa để con người có thể phân biệt được thế
nào là các lẽ phải đúng hay sai, thiện hay ác, trong đời sống của mỗi con
người. Nhưng thực tế không đơn giản như vậy, vì bản chất của thói quen ngôn ngữ
cũ bao giờ cũng tìm cách triệt tiêu ngôn ngữ mới, như một nhân tố có thể gây
bất lợi cho nó.
Do đó, khi có một ngôn ngữ mới ra đời như một tác nhân trung tâm có thể tạo sự
chuyển biến dây chuyền đến các hiện tượng sinh hoạt, các cơ chế tổ chức của một
xã hội, thì các ngôn ngữ cũ sẽ biến thành các đối trọng mạnh mẽ để tiêu trừ
ngôn ngữ mới như một phản ứng tự nhiên của một thói quen cũ trước một thói quen
mới, cho dù cái mới là đúng hay sai!
Như thế, để cho ngôn ngữ A ra đời, vấn đề cần được nghiên cứu tiếp theo là tìm
hiểu về các quan hệ thực tế đang xảy ra giữa con người với nhau ngoài xã hội
như thế nào, để sao cho các sức mạnh quyền lực đang có có thể chấp nhận sự xuất
hiện của một sức mạnh quyền lực mới, hợp lý hơn hay cũng là hợp với xu thế tiến
hóa của qui luật phát triển xã hội loài người hơn.
Biết rằng mỗi con người là một thế giới tồn tại khác biệt, không thế giới nội
tâm nào giống với thế giới nội tâm nào. Do đó, vấn đề cần phải tìm là một hệ
thống các khái niệm trung gian sao cho có thể thích hợp với các thói quen nhận
thức của mọi con người nói chung, thì tin rằng sẽ có lúc con người sẽ tìm ra
được chiếc chìa khóa giải đáp cho vấn đề chuyển đổi từ ngôn ngữ B sang ngôn ngữ
A hay từ cũ sang mới được thành công hoàn toàn vậy.
Các khái niệm trung gian đó được ngôn ngữ A phát họa thông qua các từ như: vật
chất, tinh thần, thiện, ác, lương tâm, tấm lòng, cái tâm, lẽ phải, sức sống,
hạnh phúc vật chất, hạnh phúc tinh thần, lý lẽ riêng, lý lẽ chung, ngôn ngữ,
v.v... Các khái niệm trên được xếp thành một chuỗi các lý giải liên hoàn để
cuối cùng nó muốn chứng minh một điều: ngôn ngữ A sẽ giúp con người thời đại
xây dựng thành công một tổng lượng giá trị tinh thần kiểu mới, đủ để cân đối
với tất cả những gì mà nền văn minh vật chất hiện đại đang đặt ra trước sự sống
của xã hội loài người thời đại.
Khả năng cân đối đó được ngôn ngữ A chứng minh qua nội dung tóm lược được trình
bày như sau:
Con gười sinh ra và lớn lên, thường có ý thức một cách ngẫu nhiên về các nhu
cầu hưởng thụ vật chất mạnh mẽ hơn bất kỳ nhu cầu nào khác. Khi con người càng
lớn lên, thì ý thức đó càng in đậm và thành như một bản năng thói quen tự nhiên
về một chân lý hưởng thụ sự sống hạnh phúc ở đời, đối với số đông các quan điểm
sống của con người trong thời đại ngày nay.
Khi khái niệm vật chất được con người suy rộng ra dưới nhiều hình thức phong
phú và sinh động, để cuối cùng mọi sự nhận thức của con người đều bị đồng hóa
trên nền của khái niệm “vật chất”, hay đó là một nguyên nhân tiền “vật chất”
trong môi trường phát triển tư duy sinh tồn của con người.
Tuy nhiên, trong quá trình nhận thức trên, con người cũng đã hình dung và cảm
nhận phần nào về một giá trị tồn tại khác bên cạnh cái giá trị “vật chất” ấy,
mà con người đang quen sử dụng và không ngừng đề cao nó. Sự phát hiện về cái
giá trị mơ hồ đó được con người đặt cho nó một khái niệm: “tinh thần”.
Từ khi con người phát hiện được sự tồn tại song song của hai phạm trù giá trị
trên, con người đã bỏ ra nhiều công sức để chứng minh các mối liên hệ khách
quan giữa chúng với nhau, cũng như nhằm để xác định cụ thể ý nghĩa và vai trò
của chúng đối với đời sống con người và xã hội là gì.
Sự tìm kiếm trên đến nay, xét từ góc độ khoa học, con người vẫn tiếp tục còn
đang trong giai đoạn tìm kiếm. Giải thích sự chậm trễ trên, ngôn ngữ A nêu ra
một số lý do chính như sau:
- Sự thành công phi thường của con người trong lĩnh vực khoa học vật chất, cũng
như sự đề cao một cách quá đáng sức sáng tạo của trí tuệ con người, đã dẫn con
người đến hậu quả xem thường vai trò tác động của thiên nhiên đối với sự sống
của loài người nói chung. Hay nói cách khác, con người đã chủ quan tự cho mình
cái quyền có thể đạt đến mọi thành công chỉ bằng các thành tựu khoa học Vật
Chất hoặc bằng các khả năng tư duy sáng tạo chủ quan của con người.
- Từ nhận thức chủ quan trên, con người đã vô tình trở thành nạn nhân của chính
sự phát triển văn minh đang còn phiến diện kia của mình. Từ thói quen nhập tâm
tôn thờ sự hưởng thụ các giá trị vật chất, đã ảnh hưởng đến các thói quen quan hệ
giữa con người với nhau, chúng bị đồng hóa thành gần giống như đối với các quan
hệ vật chất khác, điều đó đã gây nên những hậu quả mâu thuẫn trầm trọng trong
quan hệ con người với nhau.
Do tính năng có ý thức của não người, mà con người trong quan hệ với nhau muốn
được đối xử công bằng, và hơn thế nữa, con người còn đòi hỏi được đối xử bằng
tất cả tình thương yêu chân thật với nhau. Tuy nhiên, do bản chất của thói quen
sống vật chất được tích lũy ngay từ khi mới có loài người, đã cản trở con người
thực hiện ý muốn từ bỏ thói quen dùng bạo lực trong quan hệ cạnh tranh sinh tồn
với nhau, để quay về với các quan hệ hòa thuận phi bạo lực từ bản chất giữa con
người với nhau.
- Sự khó khăn trên còn vì lý do: con người chưa có đủ những lý lẽ minh chứng cụ
thể về thế nào là bản chất thật của giá trị tinh thần, và sự ích lợi cần thiết
của nó đối với đời sống con người là gì.
Từ nhận thức các nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trên, trên con đường khám phá
ra các ẩn số về đời sống tinh thần của con người, ngôn ngữ A đã đặc ra vấn đề:
cần phải nghiên cứu và lý giải về khả năng làm chủ sự phát triển đời sống tinh
thần của con người từ góc độ khoa học là phải như thế nào?
Qua quá trình tìm tòi nghiên cứu, ngôn ngữ A kết luận rằng: khi con người hình
thành được khả năng làm chủ sự hưởng thụ về “vật chất”, thì đồng thời cũng là
lúc nhu cầu nhận thức về “tinh thần” của con người được đặt ra cấp thiết nhất. Nhưng
đồng thời đó cũng là thời điểm khó nhất, để con người có thể nhận chân ra bản
chất của một giá trị tinh thần đích thực là gì. Hay nói cách khác, khi con
người đi tìm hạnh phúc bằng con đường hưởng thụ vật chất thành công, thì cũng
là lúc con người đã bị lạc đường đến với sự hưởng thụ về tinh thần vậy. Vì bản
chất Hạnh Phúc của con người là “tinh thần” chứ không phải là “vật chất”, nên
khi con người đạt đến Hạnh Phúc bằng con đường vật chất, thì thói quen vật chất
đã che mất thói quen tinh thần có tính phát triển theo chiều thuận ngược lại.
Vậy cuối cùng, vấn đề cần được lý giải trọng tâm là: tùy thuộc vào sự định nghĩa
thế nào là một khái niệm đầy đủ về “Hạnh Phúc đời người”. Định nghĩa đó có thể
được hiểu: “Hạnh Phúc” là một hiện tượng phản hồi cảm xúc toàn diện và tích cực
nhất, của trung tâm vô thức đến trung tâm ý thức của con người.
Bản chất nội tâm là một sự định nghĩa tập trung nhất, về bản chất giá trị tồn
tại của mỗi đời người. Bản chất nội tâm của mỗi con người được chia thành hai
phần: phần ý thức và phần vô thức; trong đó, phần vô thức là nguyên nhân chính
đã tách sự vận động nội tâm của con người thành ra như hai cá nhân tách biệt
nhau, đang tồn tại trong cùng một cá nhân thực tế. Giữa chúng thường có sự đối
thoại hay tranh luận với nhau.
Từ các kết quả nghiên cứu về vô thức, ngôn ngữ A kết luận rằng: nếu con người
biết tôn trọng và chăm lo tốt nội tâm của chính mình, thì nội tâm sẽ phát triển
tốt đẹp đến hoàn thiện, và Hạnh Phúc đời người sẽ đạt đến đỉnh cao. Nếu mỗi
người không biết cách đối xử tốt với nội tâm mình, thì hậu quả chắc chắn sẽ là
một sự suy giảm khả năng hưởng thụ Hạnh Phúc của mỗi đời người đó, đồng thời có
thể gây ảnh hưởng xấu đến Hạnh Phúc của những người khác.
Hiểu một cách cụ thể hơn, nội tâm của mỗi người cũng như là một con người cần
được tôn trọng. Từ hiện tượng đồng cảm chúng ta suy ra, nếu con người chọn giá
trị Hạnh Phúc làm mục đích ưu tiên của sự sống đời người, thì con người phải biết
đặt giá trị nội tâm cùng với giá trị quan hệ con người với nhau lên trên mọi
giá trị quan hệ của mỗi người với thế giới xung quanh.
Mặt khác, do bản chất mục đích sống lớn nhất của đời người chỉ có thể là một:
hoặc chọn vật chất ưu tiên xem nhẹ quan hệ con người hoặc xem nhẹ vật chất và
ưu tiên quan hệ con người; con người không thể cùng một thời điểm mà có thể
nhắm đến hai đích sống nghịch nhau.
Và từ lịch sử đến thời đại ngày nay, con người đã hay quen chọn hướng sống theo
cách chọn đầu và xem nhẹ cách chọn sau. Nên vì vậy, sự sống loài người khó
tránh khỏi những trắc trở, như thực tế sự sống đã và đang chứng minh về những đau
khổ và bất hạnh trong đời sống của con người và xã hội.
Như thế, để tìm lời giải cho vấn đề, chúng ta nhận thấy rằng: nếu con người
biết ưu tiên tôn trọng giá trị con người thì con người sẽ có tất cả, có về tinh
thần lẫn vật chất. Vì mọi giá trị vật chất cũng đều thuận chiều từ cái tâm mà
ra. Ngược lại, nếu ưu tiên giá trị vật chất, thì con người sẽ không tạo ra được
giá trị tinh thần toàn diện, vì nó trái chiều tự nhiên.
Như vậy, nếu xét về lý thì lời giải không phải là quá khó. Nhưng, như chúng ta
đã giới thiệu từ phần trước, khó là ở “thói quen tôn thờ vật chất” đã có từ lâu
trong đời sống con người. Trong các thói quen đó, thói quen đáng sợ trực tiếp
nhất là thói quen quan hệ bằng bạo lực, quyền thế, v.v..., và thói quen đáng sợ
ngấm ngầm về lâu dài, là các phong tục tập quán lâu đời trong đời sống con
người và xã hội được tạo ra để bảo vệ các thói quen vật chất ấy.
Do đó, muốn thay đổi một tổng thể thói quen rộng lớn như trên, con người cần
phải sửa đổi về nhiều mặt trong đời sống của con người và xã hội. Trong nội
dung của tác phẩm này, chúng ta đã được giới thiệu một số gợi ý về khả năng làm
thay đổi các hiện tượng thói quen trên.
Nội dung của sự chuyển đổi đó, chúng ta có thể tóm tắt như sau:
(từ)
(sang)NGĂN CẤM BẰNG BẠO LỰC
NGĂN CẤM BẰNG TỰ GIÁC
vì:
NGĂN CẤM BẰNG BẠO LỰC =
ĐẠT KẾT QUẢ NHƯNG HẬU QUẢ
KHÔN LƯỜNG VỀ SAU.
NGĂN CẤM BẰNG TỰ GIÁC = KẾT QUẢ TRƯỚC MẮT VÀ LÂU DÀI ĐỀU
TỐT
TOÀN DIỆN
và:
NGĂN CẤM BẰNG TỰ GIÁC =
TRANH LUẬN BÌNH ĐẲNG, CÔNG KHAI HAI CHIỀU
VỀ MỌI SỰ THẬT TRONG QUAN HỆ CON
NGƯỜI
VỚI NHAU, THÔNG QUA NGÔN NGỮ A
2. GIA NHẬP NGÔN NGỮ A
Bản chất của Hạnh Phúc là nhận thức và cảm xúc. Bản chất của ngôn ngữ A là dùng
nhận thức để làm chủ mọi hiện tượng cảm xúc. Vậy, để gia nhập ngôn ngữ A, về
nguyên tắc, mọi con người có khả năng nhận thức và cảm xúc đều có thể tham gia
vào ngôn ngữ A.
Mục đích của ngôn ngữ A là nhằm xây dựng cho con người một sự sống hạnh phúc
toàn diện về vật chất và tinh thần, không thông qua các biện pháp bạo lực. Do
đó, tính hiệu quả của ngôn ngữ sẽ tùy thuộc vào các phương pháp luận chính xác
của ngôn ngữ, cộng với một môi trường tổ chức tự giác không có bạo lực và áp
đặt uy quyền, thông qua sự tác động của quyền tranh luận tự do, bình đẳng và
công khai giữa mọi người với nhau.
Phương pháp của ngôn ngữ A là giúp con người có thói quen chú ý rèn luyện cái tâm
của mình, bởi đó là nền tảng của giá trị tinh thần của mỗi con người, và cũng
là yếu tố quyết định thành quả Hạnh Phúc toàn diện của mỗi đời người.
Mọi con người dù đang sống ở hoàn cảnh nào cũng đều có một sự rèn luyện nhất
định về cái tâm của mình. Nhưng nếu sự rèn luyện đó thiếu ý thức chủ động và
thiếu một phương pháp chứng minh thích hợp để nó được định hướng phát triển một
cách thống nhất và khoa học, thì nó có thể sẽ bị biến thành lãng phí và cũng có
thể sẽ trở thành nguyên nhân làm triệt tiêu khả năng sống thành công và Hạnh
Phúc của đời người.
Thế giới nội tâm con người là một thế giới vô cùng vô tận. Từ người có ít hiểu
biết nhất đến người có nhận thức uyên thâm nhất, cũng đều có riêng mỗi người
một thế giới nội tâm đặc thù, mà không ai có thể nói thế giới nào có giá trị
hơn thế giới nào, nếu xét vấn đề chỉ từ góc độ sự sống của từng con người đó.
Nhưng từ góc độ của một cơ cấu tổ chức hay từ góc độ về giá trị của lượng nhận
thức hữu ích của mỗi người đối với xã hội, thì ắt sẽ có sự phân chia rõ ràng. Trong
một tổ chức, không thể tất cả đều làm giám đốc và không còn ai làm công nhân.
Nếu đã không làm giám đốc, thì tối thiểu các hiểu biết để làm giám đốc, do
không được thường xuyên dùng đến, sẽ bị quên đi hay kém dần. Do đó, trong quan
hệ xã hội, con người luôn có sự phân cấp khách quan ngoài ý muốn, giữa mọi người
với nhau theo từng lĩnh vực nhất định.
Trong khả năng nhận thức về cái tâm của con người cũng vậy, người làm việc càng
nhiều thì sự đòi hỏi hiểu biết về cái tâm phải càng cao, người làm việc phạm vi
hẹp hơn thì yêu cầu nhận thức về cái tâm cũng phải đạt ở mức tối thiểu. Mọi vốn
hiểu biết không cân xứng với từng vị trí đòi hỏi, sẽ nhất định gây ra những gãy
đổ nhất định trong quan hệ con người với nhau.
Như vậy điều trên chứng tỏ, không phải người biết nhiều hơn sẽ là người có hạnh
phúc hơn, mà là sự hiểu biết đó có đáp ứng được các yêu cầu đòi hỏi của vị trí
đó hay không. Điều đó mới thật sự là vấn đề trọng yếu.
Do đó, tham gia vào ngôn ngữ A, không phải để con người trở thành ông này, bà nọ,
mà đơn giản là để mỗi người có thể tự hiểu về mình so với thế giới tồn tại xung
quanh mình. Nhờ đó, khả năng sống chủ động và hòa nhập của mỗi người vào môi
trường được thuận lợi hơn, và nhờ đó sự sống con người cũng trở nên hiệu quả, ý
nghĩa và Hạnh Phúc hơn.
Để tạo điều kiện phát triển khả năng nhận thức về sự định vị trên của mỗi người
đối với môi trường sống nói chung, ngôn ngữ A sẽ nêu một số gợi ý để mọi người tham
khảo và vận dụng theo khả năng của mình.
Những kiến thức cung cấp ban đầu của ngôn ngữ A thường không nhiều cũng không
ít, mà là tùy vào thực tế của mỗi người. Nhưng chung qui lại, số kiến thức ban
đầu đó cũng sẽ không nhiều và ai cũng có thể dễ hiểu, nhưng khi ứng dụng vào đời
sống thực tế thì chúng sẽ được biến hóa ứng dụng ra đa dạng và phong phú.
Mục đích của vấn đề là làm sao để con người không bị lệch lạc trong nhận thức,
về các hiện tượng sự sống đang thường xuyên xảy ra cùng với những biến đổi phức
tạp của nó, trong sự sống của mỗi người đối với xã hội. Thường do không quen
theo kịp trước những đổi thay đó, nên đã làm cho khả năng lý giải của mỗi người
dễ bị hụt hẫng và thành ra sai lầm trong nhận thức, để sau đó sinh ra các Hành
Động sai lầm như một sự mở đầu của sự biểu hiện suy yếu về tinh thần của đời
sống con người và xã hội.
Một xã hội có bao nhiêu hiện tượng suy yếu về tinh thần, thì sẽ có bấy nhiêu
yếu tố đe dọa sự sống bình an của con người và của xã hội nói chung.
Để tìm những lý giải đúng cho các hiện tượng sự sống con người, vấn đề có lẽ
không khó. Nó giống như người đang chơi trong ván cờ thì khó thấy nước đi,
nhưng để người đứng ngoài chỉ vẽ thì ván cờ sẽ có thể trở nên dễ hiểu và dễ
chơi hơn.
Đối với các vấn đề sự sống ngày nay, khi con người còn cách xa nhau về quan
điểm sống, thì nhu cầu được có cơ hội để hội ý với nhau về sự sống là rất lớn,
nhưng cũng rất khó thực hiện; hay dù thực hiện được nhưng kết quả đạt lại không
cao, bởi thiếu sự đồng nhất. Nay nếu con người hình thành nên một cơ chế hội ý có
tổ chức, có hệ thống, theo một hướng dẫn gợi ý một cách hợp lý, thống nhất và
khoa học, thì phải chăng các kết quả hội ý trên sẽ giúp ích thiết thực cho sự
sống quan hệ giữa con người với nhau được hiệu quả hơn.
Mặt khác, nếu khi gặp nước cờ khó mà thiếu người có nước cờ hay, thì dù có
nhiều người nhưng cũng chưa chắc thắng được ván cờ. Trong môi trường tổ chức
của ngôn ngữ A, các công trình nghiên cứu sẽ có trách nhiệm lý giải mọi hiện
tượng phức tạp về sự sống đời người, để mọi người dễ lựa chọn lời giải đáp về
lý luận hay về thực tế cho vấn đề. Ngay cả trường hợp, nếu đó là những vấn đề
ngoài khả năng giải quyết đối với mọi con người thời đại, thì ngôn ngữ A sẽ vẫn
phải đề ra được những lời giải hợp lý nhất tại thời điểm, trên cơ sở các nguyên
lý cơ bản đã được qui ước một cách hiệu quả như thế nào đó từ trước.
Ngoài ra, môi trường tổ chức của ngôn ngữ A còn là nơi để phát triển hiệu quả
đời sống tinh thần tốt đẹp của mỗi người, thay vì mỗi người phải tự tìm tòi lấy
tương lai ý nghĩa đời mình, mà kết quả mang lại thường khi thất bại nhiều hơn
là thành công, nhất là trong điều kiện của Môi Trường Sống Bình Thường.
Tuy nhiên, ngôn ngữ A cũng không thể chịu trách nhiệm đơn độc mọi sự phát triển
đa dạng của mỗi con người, vì trong sự sống mỗi người đều có thể đã bị chi phối
bởi từ vô số động cơ đang sẵn có ngoài xã hội. Do đó, nếu tất cả hai bên đều có
cùng một mục tiêu hợp tác tích cực với nhau, thì với những minh chứng hợp lý
của ngôn ngữ A, tin rằng mỗi người sẽ có thể tìm ra lời giải đáp kiến hiệu nhất
cho sự sống Hạnh Phúc tốt đẹp nhất của đời mình.
Bản chất nội tâm của con người có nhu cầu được hưởng thụ về sự phát triển nhận
thức đến vô hạn, nhưng phải hợp lý và có hệ thống. Ngôn ngữ A cũng là một
phương pháp luận có thể giúp con người phát triển khả năng nhận thức về sự sống
đến vô hạn, phù hợp với các đòi hỏi cần được đáp ứng trên của nội tâm con
người.
Tóm lại, trong môi trường tổ chức của ngôn ngữ A, con người được tạo tiền đề
tốt nhất để mỗi người có thể tự chủ được tương lai tốt đẹp nhất của mình, thông
qua các khả năng nhận thức và tranh luận độc lập của mỗi người về các vấn đề sự
sống cá nhân riêng tư hay có liên quan đến nhiều người.
Về hình thức tổ chức, do ngôn ngữ A có trọng tâm chính là ngôn ngữ, nên hình
thức tổ chức không phải là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, nếu không có tổ chức
thì sẽ không thể tạo dựng được một môi trường thuận lợi cho sự bám rễ và phát
triển tinh thần của con người theo phương thức Đơn 13; nên nguyên tắc tổ chức
cũng là một điều kiện then chốt sau điều kiện ngôn ngữ đã được hình thành.
Khi con người có được một tổ chức thống nhất về quan điểm sống, về khả năng hợp
nhất trong Hành Động một cách tự giác, tích cực, đúng đắn, v.v... vì một mục
tiêu hòa bình và Hạnh Phúc nào đó, trong một Môi Trường Sống Bình Thường nhất
định, thì ắt là mục tiêu đó sẽ nhanh chóng được thực hiện đến thành công một
cách trọn vẹn vậy.
3. THIỆN VÀ ÁC
Ngôn ngữ A còn là một phương pháp luận giúp con người phân biệt được các hiện
tượng thiện và ác, cũng như về thế nào là người tốt hay xấu một cách hiệu quả.
Để cuối cùng, sao cho mọi con người đều có thể trở thành tất cả là thiện, và
bằng cách nào để tất cả cái ác phải bị đẩy lùi vào quá khứ.
Ngày nay con người thường quen gọi, giết người là một hành động tội ác hay đánh
đập người hung bạo cũng là một tội ác. Nhưng ngoài ra, con người cũng còn có
thể lý giải rằng, nếu giết người mà có chính nghĩa, thì không những không phải là
tội ác mà là một sự lập công của cái thiện. Và tương tự như thế, đánh đập, chửi
rủa, hại nhau, v.v..., con người cũng có thể tìm ra được những cách lý giải hợp
lý, để biện minh cho những hành động trên cũng là rất thiện và đáng được ghi
công không kém...
Vì vậy, một số Hành Động gây hậu quả xấu cụ thể và trực tiếp, đối với con người
ngày nay, có khi rất khó lý giải chính xác đó là thiện hay ác. Vậy, những hành
vi, những mưu tính, những lý lẽ tác động trừu tượng, v.v... hay gọi chung, những
mầm mống tiền đề để cấu thành nên cái ác, thì lại càng khó được chứng minh đúng
hay sai để có biện pháp ngăn ngừa hiệu quả.
Do đó, khi mầm mống của tội ác chưa được con người xác định hiệu quả ngay từ đầu,
thì hậu quả xấu xảy đến cũng sẽ chắc chắn nằm ngoài tầm kiểm soát của con người
văn minh hiện đại vậy.
Để định nghĩa nguyên nhân của cái ác trong thời đại văn minh ngày nay, phải
chăng con người không thể chỉ nhìn bằng mắt thấy, tai nghe, là xem như đã đủ để
kết luận. Ngôn ngữ A cho rằng: để giải đáp hiệu quả vấn đề trên, thực tế đòi
hỏi con người phải có cả một qui mô hệ thống lý thuyết hay triết lý đủ khả năng
đúc kết và lý giải một cách hoàn chỉnh toàn bộ ý nghĩa của mọi sự vận động của
thế giới tồn tại, trong đó có loài người, thì vấn đề mới có hy vọng được giải
đáp đến tận nơi, tận chốn.
Có một lý thuyết hoàn chỉnh không vẫn chưa đủ mà vấn đề còn là, nó có được mọi
con người tự giác, tự nguyện ưng thuận dùng nó làm kim chỉ nam cho quan điểm
sinh tồn của mỗi đời người hay không. Hay đó cũng là bài toán của một vấn đề
khá phổ biến: “khi nào con người còn cách sống hai mặt, về hình thức thì tỏ ra ủng
hộ lý thuyết, nhưng về kết luận trong ý nghĩ thì vẫn Hành Động ngược lại hay
sống khác đi so với sự đóng giả kia, thì lời giải về ”thiện và ác" cũng sẽ
còn chưa tìm ra lối thoát thật sự vậy!".
Để tìm ra một lý thuyết như vậy, có lẽ trong nhân loại không thể có bất kỳ một
cá nhân nào hoặc một tập thể nghiên cứu nào có thể đáp ứng hiệu quả lời giải
đó. Mà vấn đề phải chăng, chỉ có thể là sự đúc kết ra một phương pháp luận sao
cho, mọi con người đều phải nhận ra phần trách nhiệm của mình để cùng nhau tham
gia góp công sức vào tìm ra lời giải chân lý cho cuộc sống, thì khi đó lối
thoát toàn diện cho vấn đề mới có đủ cơ sở được hé mở vậy.
Một phương pháp luận có thể tập hợp được tất cả mọi vai trò nhận thức, mà mỗi
người đang đảm nhận trong cộng đồng, theo góc độ của Ngôn ngữ A, thì nó phải là
Lý Thuyết về Ngôn Ngữ A như một hướng giới thiệu nhiều triển vọng nhất.
Nếu đó là một lý thuyết đúng, thì nó phải tập hợp được mọi công sức tích cực
của mọi người trong cộng đồng lại, để qua đó con người có đủ cơ sở cụ thể hóa
ra một cách thống nhất về thế nào là thiện, là ác, và thế nào là lẽ phải đúng,
và thế nào là lý lẽ sai quấy trong các quan hệ giữa con người với nhau, theo
từng thời điểm của không thời gian nhất định.
Nếu như ngày nay con người còn chưa thực hiện được điều trên, thì phải chăng
mọi điều sai, lẽ đúng về cái ác, cái thiện, v.v... mà con người đang dùng, đều
chỉ mới là những khái niệm có giá trị tương đối? Nhưng trong khi đó, bản chất
sự sống con người bao giờ cũng là một sự đòi hỏi tìm về với cái tuyệt đối, hay
về một mô hình của sự sống Hạnh Phúc lý tưởng, tuyệt đối và vĩnh cửu nhất.
Do đó, có lẽ vì thế, mà điều gì cần làm thì rồi đây ắt con người sẽ phải làm
đến chăng?
4. ĐIỀU HÒA ÂM DƯƠNG
Ngôn ngữ A là một phương pháp luận nhằm tạo sự quân bình âm dương, hay sự cân
đối trong các quan hệ, như trong quan hệ giữa loài người với nhau phải cân đối
trước thế giới của tạo hóa nói chung.
Trong thế giới tồn tại bao la của vũ trụ, nếu tất cả thiếu đi một qui luật duy
trì các trật tự cân đối chung, thì có lẽ, mọi sự vận động sẽ đều trở thành vô nghĩa.
Chúng ta hãy gọi qui luật trật tự đó một cách nôm na, là Qui Luật Quân Bình Âm
Dương (QLQBAD).
Đó là khái niệm về một trật tự cơ bản tối thiếu trong mọi tổ chức có từ hai
nhân tố vận động trở lên. Hiểu một cách chung hơn, Quân Bình Âm Dương có nghĩa
như một sự kết hợp hài hòa một cách hợp lý và tự nhiên, giữa các yếu tố đang
cùng tồn tại và cùng đang tác động gây ảnh hưởng lẫn nhau.
Vấn đề muốn đề cập đến ở đây là làm cách nào để giữ được các mối quan hệ giữa
con người với nhau luôn được quân bình một cách toàn diện, trên cả hai lĩnh
vực, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người nói chung, theo
hướng của QLQBAD nêu trên.
Hay cụ thể hơn, đó là vấn đề làm cách nào để mọi con người giàu có, tiền rừng
bạc biển, có thể tự nguyên tự giác chia xẻ một cách hợp lý, những tài sản quá
nhiều của mình đối với những người đang còn quá thiếu. Đây có lẽ là một trở
ngại trọng tâm còn lại mà lý thuyết Ngôn Ngữ A cần phải tìm ra lời giải, để
vượt qua trong một chừng mực cụ thể hơn.
Người ta có thể cho rằng, để trả lại sự công bằng trong thu nhập đời sống của
mọi người dân, con người phải tìm cách hạn chế sự năng động phát triển nhanh
của những người đang mau làm giàu kia, hay bằng các biện pháp bạo lực để đánh
cướp phần của cải dồi dào của người giàu đem phân chia đều lại cho những người
nghèo, v.v... để tạo sự quân bình hợp lý cho mức sống chung.
Những biện pháp như thế, qua thực tế đã chứng minh, chúng đã không mang lại kết
quả như ý. Mà vấn đề là làm sao tạo điều kiện giúp đỡ cho tất cả những ai có
khả năng làm giàu một cách hợp lý và lương thiện, đều có thể phát triển một
cách tốt nhất và an toàn nhất. Nhưng bù lại, xã hội cũng cần phải có một cơ sở
nhận thức toàn diện nào đó, để sao cho cái giàu không trở thành nguyên nhân gây
hại cho sự sống con người nói chung, người nghèo nói riêng. Hoặc nó không còn
là nguyên nhân trực tiếp gây nên sự bần cùng hóa hay sự nô lệ hóa, về đời sống
vật chất hay tinh thần của con người và xã hội hiện đại nói chung, kể cả đối
với những người giàu kia nói riêng.
Để lý giải vấn đề này, chúng ta hãy bắt đầu từ lịch sử hình thành thói quen
quan hệ, trao đổi hay mua bán giữa loài người với nhau đã xảy ra theo cách như
thế nào.
Thông thường trong sự sống, khi người này thấy thiếu vật dụng gì mà trong khi
người khác đang có, thì hai bên tìm cách thỏa thuận trao đổi với nhau trên cái
mình cần. Đến một lúc nào đó, con người thấy rằng dùng một phương tiện trung
gian là tiền đề trao đổi các nhu cầu vật dụng trên là tiện hơn cả. Và từ đó,
con người có thói quen định giá trị mọi vật dụng có ích trong đời sống sinh
hoạt của con người bằng “đồng tiền”. Ngày nay nó đã trở thành như một nhân tố
trung tâm của đời sống văn minh hiện đại, trong thế giới loài người.
Cách định giá như vậy rất thành công trong lĩnh vực quan hệ trao đổi các giá
trị vật chất giữa con người với nhau. Nhưng, như đã chứng minh trong tác phẩm,
nhu cầu đời sống con người không phải chỉ có nhu cầu về vật chất không mà nó còn
có nhu cầu về đời sống tinh thần nữa.
Theo cách định nghĩa của ngôn ngữ A, thì khái niệm về Khoa Học Tinh Thần của
con người, là một phát hiện có sau so với sự phát triển nhận thức của con người
đối với các khái niệm về Khoa Học Vật Chất.
Vậy nay, do có thêm ý thức về một nhu cầu mới trong đời sống con người, mà về
tính chất cơ bản nó hoàn toàn khác với tính chất của các nhu cầu về vật chất đã
có từ trước, nên điều đó cho phép con người có thể nghĩ ra một hình thức trao
đổi, mua bán kiểu khác, kiểu mới hơn so với những thói quen định giá trao đổi, mua
bán mà con người đã quen áp dụng từ lâu nay.
Để định giá trị một sản phẩm vật chất có khi rất dễ nhưng cũng có khi rất khó;
tuy nhiên, dù sao sản phẩm vật chất là hữu hình nên sự định giá cũng dễ có cơ
sở kết luận hơn. Trong khi đó, giá trị sản phẩm về tinh thần thuần túy thì gần như
hoàn toàn vô hình, nó chỉ có thể được hình dung ra tùy theo sự cảm nhận trong
đáy lòng của mỗi người.
Giá trị tinh thần có thể chỉ là một lời nói gió bay và biến mất, người cho và
người nhận đều hoàn toàn có thể phủ nhận những gì đã xảy ra. Do đó, con người
phải lấy cơ sở nào để đo giá trị những gì muốn được trao đổi hay cần mua bán,
về các giá trị của các sản phẩm tinh thần ấy?
Giá trị tinh thần, nó vừa rất rẻ tiền nhưng cũng có thể vừa rất đắt. Nó rẻ vì
thiếu nó con người vẫn “sống” được, hay vì nó cũng dễ được tạo ra nếu mỗi người
chịu để ý quan hệ tốt bụng một chút với mọi người. Nhưng nó cũng rất đắt, vì
muốn tạo nên một giá trị tinh thần đạt mức “thuần khiết” cao của sự thanh tịnh
và Hạnh Phúc, thì nó đòi hỏi con người phải bỏ ra nhiều công sức phức tạp và
cũng cần rất nhiều thời gian của một đời người để đạt đến thành công. Do đó,
với một kết quả như thế, không phải ai cũng có đủ điều kiện đạt được, nên giá
trị của nó ắt là phải rất đắt vậy.
Nếu con người hiểu ra thì giá trị tinh thần sẽ được đánh giá cao, vì đời người
ai cũng muốn đạt đến một giá trị sống Hạnh Phúc toàn diện. Nếu con người còn
thành kiến về tinh thần, thì sự vận dụng về nó sẽ vẫn lại là mơ hồ, kém hiệu quả;
và nếu như thế thì con người và xã hội sẽ không đầu tư đúng mức thời gian, công
sức và tiền của cho sự nâng cao mức sống về tinh thần của con người lên. Khi
giá trị tinh thần bị chậm phát triển, thì đó là nguyên nhân sâu xa của mọi sự
gia tăng các tội ác nơi con người, và khái niệm Hạnh Phúc đời người sẽ mãi mãi
như còn trong ước vọng hư ảo giữa thế giới đời thực, với nhiều quan điểm chủ
quan vật chất chi phối mà uy quyền của bạo lực và bất công sẽ tiếp tục là những
điểm tựa hậu thuận tích cực cho nó.
Điều kỳ lạ trong lời giải cho vấn đề là, để định đúng giá tiền của một sản phẩm
vật chất thì con người phải cần đến sự tác động khách quan của môi trường cung
cầu kinh tế thị trường trả lời; nhưng để định đúng giá tiền của một giá trị sản
phẩm tinh thần, thì tùy thuộc chủ yếu vào sự giác ngộ nhận thức của nội tâm mỗi
con người mà định giá một cách chủ quan cho nó.
Hay vấn đề có nghĩa, tùy theo sự giác ngộ của cái tâm thiện biết nhìn toàn
diện, khách quan và đúng thực tế của mỗi người, mà giá trị thực của tinh thần
được xác định, dựa trên kết quả của những cảm nhận tinh thần mà cá nhân đó có
thể ứng dụng hiệu quả vào trong cuộc sống.
Như vậy, người giàu chỉ sẽ giúp người nghèo một cách tích cực, khi họ đã biết cách
rèn luyện và phát triển cái tâm tinh thần của mình lên các nấc thang nhận thức
của giác ngộ, về thế nào là Hạnh Phúc lý tưởng của một đời người.
Có tiền, có bằng cấp hay có chức quyền vẫn chưa chắc có được cái tâm, hay có
được sự cảm nhận đúng và đầy đủ về ý nghĩa sự sống của một đời người, hay vẫn
chưa hẳn đã chủ động được những điều mà họ cảm thấy như còn thiếu trong mọi
khái niệm hạnh phúc của mỗi đời người thành đạt có thể cảm nhận được. Sự giác
ngộ về cái tâm hay về Hạnh Phúc đời người chỉ có thể tạo được, bằng sự tự rèn
luyện về nhận thức và Hành Động của bản thân mỗi người, ngoài ra không thể còn
cách nào khác hiệu quả hơn.
Nay nếu con người lập được một qui ước thống nhất, rằng tất cả mọi con người
khi đã giàu lên đều được xem như đang đạt đến mức sống Hạnh Phúc toàn diện hơn
người; mà sự sống Hạnh Phúc đó theo ngôn ngữ A là đồng nghĩa với tâm thiện hơn
người vậy. Vậy ắt là, người giàu nào khi đó cũng phải có thiện ý nhận lấy trách
nhiệm giúp đỡ trở lại tất cả những người nghèo, hay tất cả những người đang cần
đến sự giúp đỡ của những người đang có hơn ấy, trong phạm vi mà họ có thể.
Khi đó, xã hội sẽ thống kê tổng số người giàu và tổng số người cần được sự giúp
đỡ kia, để cuối cùng tất cả được tập hợp và phân chia thành các tập hợp khác
nhau; mà trong đó, mỗi người giàu đều phải có trách nhiệm tạo sự giúp đỡ qua
lại giữa mọi người với nhau, trên cơ sở của sự tự giác, tự nguyện, từ cái tâm
nhận thức về quan hệ của mỗi người trong tập hợp đó. (Ví dụ: tập hợp thành các
tổ chức Gia Đình Mới).
Cuối cùng, qua đánh giá sự phát triển đời sống của mỗi tập hợp khác nhau đó, mà
mỗi người giàu hiểu ra mức độ giác ngộ cái tâm mình đến đâu và đường đến với ý
nghĩa Hạnh Phúc đời người còn bao xa...
Chúng ta biết rằng, tất cả chỉ diễn biến trên tinh thần tự nguyện tự giác mà Hành
Động, không ai có quyền dùng bạo lực ép buộc với ai. Tuy nhiên, nếu tạo hóa vận
động và phát triển theo nguyên tắc QBAD, thì hiện tượng trên ắt phải xảy ra một
cách tất yếu như một bản năng quán tính tự nhiên trong quan hệ sự sống giữa con
người với nhau, khi điều kiện môi trường sống đã hội đủ các yếu tố tác động.
Sau đó, vấn đề nội dung và hình thức cụ thể của những mối quan hệ giúp đỡ nhau
đó như thế nào, sẽ không còn là vấn đề khó khăn nữa, khi mà ý muốn từ trong tâm
thiện của mỗi con người đã hình thành, nhất ở những người giàu hay những người
đang có quyền thế.
Hiện tượng quan hệ trên được ngôn ngữ A gán cho nó một khái niệm: “SỰ THỐI
LẠI”. Đó là một việc làm nhằm mục đích xây dựng thành công một mức sống tinh
thần phát triển cho những người đã ý thức ra được sự dư trội của mình, là nó
cần được dùng cho sự giúp đỡ trở lại cho những người đang còn khó khăn về mức
sống cơ bản.
Ví dụ, trong quan hệ mua bán, khi người mua trả một món tiền thừa cho người
bán, thì người bán phải có trách nhiệm THỐI số tiền thừa đó lại cho người mua.
Sự thối tiền lại đó mang ý nghĩa tính toán sòng phẳng về vật chất. Trong khi đó
Sự Thối Lại của khái niệm trên mang ý nghĩa sòng phẳng về quan hệ tinh thần.
Như vậy, dưới gốc độ của ngôn ngữ A, mọi con người giàu lên về vật chất tiền
của, đều mang nợ Tinh Thần Cơ Bản đối với mọi người còn đang khó khăn về vật
chất hay đối với những người còn đang nghèo khổ. Sự mắc nợ đó được hình thành
tự nhiên và tất yếu trong quá trình giàu lên của mỗi “người giàu”. Nó không
phải là cái tội nếu tính theo cái nghĩa của luật pháp vật chất, mà phải tính là
cái công mới đúng nếu như sự làm giàu đó là hợp pháp.
Tuy nhiên, mọi sự mắc nợ đều phải trả nợ. Việc xảy ra giống như trong ví dụ
trên, người đang nhận tiền thừa là người đang mắc nợ, nên cần phải trả nợ cho
người đưa tiền thừa thì cái nợ kia mới được xóa. Như vậy, mọi người giàu ở đây
đều phải có trách nhiệm trả nợ cho người nghèo, theo cái nghĩa mắc nợ về “Tinh
Thần Cơ Bản”, thì cái nợ kia mới được xóa.
Nợ về “Tinh Thần Cơ Bản” của người giàu đối với người nghèo, là cái nợ đã gây
cho mọi người nghèo không có được mức sống vật chất cơ bản; mà cụ thể, đó là nợ
về một mức sống cơ bản tối thiểu có thể chấp nhận được trong một môi trường xã
hội nhất định, do Lý Lẽ Chung A xác định.
Đây là thứ nợ mà con người không thể áp đặt bằng các văn bảng, hay bằng những
chứng minh tính toán bằng chứng cụ thể, v.v... mà chỉ có thể tính bằng sự tự
nguyện, tự giác từ cái tâm thiện giác ngộ về thế nào là sự sống, là Hạnh Phúc,
là lẽ phải, là chân lý, v.v... của mỗi người giàu nói riêng hay của mọi người
nói chung. Nếu con người dùng biện pháp bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào, ngoài
biện pháp đấu tranh bằng tranh luận công khai để giác ngộ họ và để đòi nợ tinh
thần trên, thì đều sẽ vấp phải sự sai lầm và thất bại. Vì không có bất kỳ nợ
giá trị tinh thần nào lại có thể đòi hiệu quả hơn các biện pháp mang tính tinh
thần tự giác và tự nguyện, qua sự giác ngộ nhận thức của những người đó.
Nợ “Tinh Thần Cơ Bản” ở đây là nợ tinh thần trên phương tiện của vật chất. Như
vậy, tùy theo sự phát triển cái tâm A của người giàu, được rèn luyện và phát
triển đến đâu, thì số lượng tiền của của người giàu đem giúp cho người nghèo sẽ
được tăng lên phù hợp đến đó. Tất cả sao cho, mọi sự giàu và nghèo biết phối
hợp nhau để tạo nên một sự phát triển chung tốt nhất và hiệu quả nhất.
Nếu người giàu về vật chất bị mắc nợ về “tinh thần” một cách ngẫu nhiên, thì
người giàu về tinh thần cũng sẽ bị mắc nợ về “vật chất” một cách ngẫu nhiên. Nếu
bên này trả “nợ tinh thần” bằng tiền của để nâng mức sống tinh thần, thì bên
kia sẽ phải trả “nợ vật chất” bằng số lượng và chất lượng của lý lẽ của chân lý
và lẽ phải, sao cho có thể nâng mức sống vật chất của người giàu về tinh thần
lên. Vậy, người nhận “nợ tinh thần” sẽ được khá lên về vật chất, và người nhận
“nợ vật chất” sẽ được khá lên về tinh thần.
Nếu người giàu mắc nợ thì người ác, người xấu, người đội lốt thiện để làm điều
xấu, v.v... sẽ phải mắc nợ người thiện về các “tội lỗi gây ra”. Nó chỉ có thể
trả được bằng sự hồi tâm, ăn năng và thay đổi lại cách quan hệ thành chân
thiện, tốt bụng, thiện cảm, v.v..., để cuối cùng tất cả tạo thành sự quân bình
cân đối có lợi cho sự phát triển chung, phù hợp với QLQBAD mà tạo hóa đã an
bài. (GC: người thiện mắc nợ người ác về môi trường sống, người nghèo mắc nợ
người giàu về khả năng tự nâng cao mức sống đến cơ bản, v.v...)
5. SỰ CHUYỂN TIẾP NGÔN NGỮ
Nếu thực tế ngôn ngữ A là một giá trị xã hội, thì ắt sẽ phải xảy ra giai đoạn
chuyển tiếp từ ngôn ngữ B sang ngôn ngữ A. Theo lý thuyết, sự chuyển tiếp đó sẽ
là không phức tạp và ồn ào, vì ngôn ngữ là một phương tiện phổ thông, ai cũng
phải dùng đến, nên ai cũng đều có thể có khả năng làm thay đổi nó theo hoàn
cảnh, khả năng và ý muốn của mỗi người.
Như vậy về hình thức, xã hội sẽ như không có gì thay đổi, nhưng về tính chất
bên trong các quan hệ thì có thể đang có thay đổi dần. Bởi bản chất của sự thay
đổi đó được tính trên sự tự nguyện tự giác của mỗi người làm căn bản, nên tất
yếu mọi sự thay đổi bất ngờ và đột biến có thể gây xáo trộn môi trường sống
chung sẽ không xảy ra. Tất cả đều cần được xảy ra theo cái nghĩa hòa bình đầy
đủ của nó.
Sau đó, tùy theo nội dung chứa đựng trong ngôn ngữ mới, mà xã hội sẽ thấy cần
phải bỏ cái gì và thêm cái gì. Sự bỏ và thêm, đến một lúc nào đó, sẽ tạo thành
một sự đột biến từ số lượng sang chất lượng trong các quan hệ sinh tồn giữa con
người trong xã hội.
Sự thay đổi ngôn ngữ được bắt đầu tính từ sự định nghĩa về “sự sống và Hạnh
Phúc của mỗi đời người” là gì. Khi con người hiểu ra tất cả những gì con người
đang thấy trong cuộc sống đều chỉ mới là những cái cần, nhưng chưa phải là
những cái đủ của một đời người, thì con người sẽ có ý thức phải nâng cao đời
sống tinh thần của mỗi con người lên một cách tích cực.
Đời sống ngày nay đòi hỏi con người phải chạy đua, tranh tìm vật chất để sống
và để làm giàu khi có thể. Trong khi bản chất của giá trị tinh thần con người
được cấu tạo bởi sự tích tụ của thói quen và thời gian sống của mỗi đời người,
nên mọi sự thiếu quan tâm đến rèn luyện giá trị tinh thần một cách tích cực
ngay từ hôm nay, đều sẽ khó tránh khỏi phải bị trả giá về sau theo nghĩa Hạnh
Phúc của đời người không được trọn vẹn.
Vì lẽ đó, sự hiểu biết về sự sống sẽ giúp con người hôm nay tránh được các hậu
quả sai lầm chủ quan về sau. Khi con người biết chăm lo trau dồi giá trị tinh
thần của mình ngay từ sớm, thì đồng nghĩa con người sẽ nhận ra vai trò quan
trọng của giá trị ngôn ngữ trong quan hệ giao tiếp đời thường phải như thế nào.
Ý thức được vai trò của ngôn ngữ, con người sẽ hiểu ra sự cần thiết phải định
nghĩa lại một cách khoa học hơn về thế nào là sự quan hệ hòa bình và Hạnh Phúc
giữa con người với nhau.
Khi con người đã có ý thức đề cao giá trị của các quan hệ con người với nhau
lên, thì con người sẽ đặt vấn đề xây dựng các mô hình tổ chức của đời sống con
người và xã hội lại một cách thích hợp hơn.
Xây dựng được một mô hình tổ chức xã hội tốt, thì mọi ý kiến của mọi người sẽ
dần có chất lượng và sẽ được tôn trọng. Khi mọi ý kiến của mọi người đều được
tôn trọng, thì người dân mới sẽ trở thành người chủ xã hội thật sự và cũng đồng
thời mới làm chủ được thật sự bản thân và cuộc đời của mình.
Một xã hội mà mọi người dân đều có thể ý thức dễ dàng và sử dụng dễ dàng quyền
làm chủ của mình một cách hiệu quả, thì tất cả mọi bộ máy tổ chức có trong xã
hội đều sẽ lần lượt trở thành như một công cụ hay như một thứ “đầy tớ trung
thành” phục vụ đắc lực vì lợi ích của mọi người dân.
Một xã hội mà mọi người dân đều có nhiều “đầy tớ trung thành” biết phục vụ hết
mình vì lợi ích chung, thì xã hội đó sẽ không còn có tội ác, không còn có bạo
lực, không còn có bất công và đau khổ, không còn có tù tội, v.v... Một xã hội
như thế sẽ không còn người sống muốn tự tử, và ai cũng sẽ dễ dàng hình thành cho
mình một niềm tin Hạnh Phúc trong hiện tại và cho tương lai.
Tất cả sẽ tùy vào quá trình chuyển đổi của ngôn ngữ. Chúng có thể xảy ra trong
thời gian lâu dài, nhưng bằng những bước phát triển rõ ràng, phù hợp với điều
kiện thực tế cho phép. Chúng được xảy ra như một qui luật đã được định sẵn, mà
con người là nhân tố chịu trách nhiệm chính thúc đẩy quá trình phát triển đó
tích cực tiến lên, để hòa nhịp cùng với sự dịch chuyển biến đổi và phát triển
chung của toàn thể bộ máy vận động vĩnh cửu của tạo hóa.
Trong các hình thức chuyển đổi, hình thức chuyển đổi được biểu hiện có tính
trọng tâm nhất là hình thức chuyển đổi về “quyền sở hữu”. Thông thường “quyền
sở hữu” được con người phát triển nhận thức, từ sự chiếm hữu cho riêng tư đến
sự chiếm hữu cho tập thể, cho cộng đồng, cho cái chung và cuối cùng là cho tạo
hóa. Chúng ta có thể gọi chung, đó là quá trình chuyển đổi từ khái niệm tư hữu
sang khái niệm công hữu.
Có phải tư hữu có nghĩa, về hình thức, mỗi người muốn gom tất cả tài sản về cho
riêng mình, và công hữu là tất cả gom lại để chung còn mỗi người thì không còn
gì để cất giữ cho riêng tư?
Để định nghĩa ranh giới cho hai khái niệm từ ngữ trên, ngày nay con người có
thể suy nghĩ ra nhiều cách hiểu khác nhau. Ở đây, ngôn ngữ A phát họa ra một
cách định nghĩa như sau để vận dụng.
Về hình thức, trong xã hội nên giao tất cả quyền quản lý về cho tư hữu dưới mọi
hình thức. Điều đó xét về lý là hoàn toàn có thể thực hiện được. Nếu trong thực
tế có những vấn đề chung, nó không thể phân về sở hữu cho riêng ai, nhưng nó có
giá trị và cần được quản lý, thì xã hội cũng nên tìm mọi cách để giao về cho
một cá nhân nào đó chịu trách nhiệm quản lý như mọi quyền tư hữu khác, chỉ khác
là nó có kèm theo một số điều kiện hay một số qui định cần thiết nào đó.
Khi mọi giá trị đều có một chủ nhân quản lý cụ thể, thì con người không còn sợ
những hiện tượng mất mát tài sản một cách vô lý. Đến đây vấn đề đặt ra là, con
người sẽ lý giải sao về sự khác nhau số giá trị tài sản của mỗi người.
Sự so sánh phân bì đó, trong môi trường ngôn ngữ A, sẽ không còn là một vấn đề
quan trọng. Ví như trong tự nhiên, con chuột không so bì với con voi, ngọn cỏ
không so bì với đàn bò đang nhai cỏ vô tư lự. Giữa con người với nhau cũng thế,
đến một lúc con người sẽ hiểu ra, trong môi trường Ngôn Ngữ A, mọi sở hữu nhiều
hay ít không phải là điều gì to lớn lắm, để có thể quyết định được tất cả giá
trị sự sống Hạnh Phúc của một đời người.
Bởi yếu tố, như ngôn ngữ A đã minh chứng, quyết định ý nghĩa và giá trị sự sống
của mỗi con người là tùy thuộc chính vào sự nhận thức tinh thần của người đó,
chứ không nằm trong số tài sản vật chất nhiều hay ít kia. Hay biết đâu, chính
sự chiếm hữu tài sản quá nhiều lại trở thành như một gánh nợ “đầy tớ”, hơn là
sự ưu đãi của xã hội đối với một đời người ngắn ngủi chăng.
Thật vậy, khi con người hiểu ra giá trị cuối cùng của sự sống mỗi đời người là
tùy thuộc vào mức phát triển tinh thần của mỗi con người đó, thì giá trị vật
chất tài sản kết sù kia sẽ dễ thành như một gánh nặng trách nhiệm hơn là một
quyền lợi như cách con người vẫn thường nghĩ.
Mặt khác, biết rằng bản chất tự nhiên của mỗi giá trị tinh thần con người là sự
tự ý thức “Thối Lại” tất cả những gì thuộc về sự dư thừa đối với cái tâm chân
thiện của mỗi con người, hay đối với qui luật phát triển tất yếu của sự sống
loài người; nên mọi sự quá nhiều cũng chỉ như một gánh nợ phải trả hay phải
thối lại đối với môi trường sống vậy thôi.
Nếu giữ để mà thối lại, thì mọi của tư sẽ khác gì thành của công, hay mọi của
riêng sẽ hóa thành của công vậy. Mọi chủ nhân giàu có đều vô tình bị biến thành
người “gác kho” cho toàn xã hội, khi mọi trách nhiệm quản lý và phân phối của
cải xã hội đều bị hệ thống nhận thức Lý Lẽ Chung A của cộng đồng xã hội nói
chung, chi phối và điều khiển một cách như tình cờ ngẫu nhiên, nhưng cũng vừa
mang tính tất yếu đối với qui luật tồn tại và phát triển chung của xã hội loài
người.
Tất cả xảy ra chỉ vì một nguyên nhân: nếu tạo hóa đã sinh ra như thế thì con
người ắt cũng phải như thế mà thôi, không thể nào khác được. Hay vì, chỉ có như
thế thì sự sống con người mới có thể phát triển bền vững, và Hạnh Phúc lý tưởng
mới trở thành hiện thực.
Ý nghĩa sự sống con người giờ đây mới được thể hiện rõ: tất cả chỉ như một sự
phân công ngẫu nhiên của tạo hóa đối với số mệnh của mỗi con người, cũng như
của mỗi thế hệ nhân loại. Sự nổ lực cố gắng sống hết mình của từng con người
tốt nhất, đều lần lượt sẽ trở thành như một sự cố gắng để hoàn thành trách
nhiệm được phân công trước tạo hóa và xã hội đối với mỗi cá nhân riêng lẽ đó.
Sự đóng góp tích cực trong một môi trường sống bất công và vô lý, sẽ được cả xã
hội ghi công kính phúc. Nhưng sự đóng góp tích cực trong một môi trường sống công
bằng và Hạnh Phúc, thì sẽ được con người xem như cá nhân đó đã hoàn thành phần
trách nhiệm được phân công một cách bình thường và tự nhiên trước xã hội và tạo
hóa.
Bởi đơn giản, giá trị lớn nhất của mỗi đời người là làm tròn vai trò trách
nhiệm LÀM NGƯỜI của mình trước bản thân, xã hội và trước qui luật vô cùng, hơn
là sự làm giàu, hay là sự đạt đến những vinh quang tột đỉnh trước quyền lợi và
danh vọng, như là sự hưởng thụ mức sống giàu sang cách biệt hay là sự say mê
quyền lực trong quan hệ, trong cạnh tranh hơn thua, trong sự hứng thú truy tìm
lợi nhuận, v.v...
6. QUAN ĐIỂM LUẬN
Bản chất của ngôn ngữ suy cho cùng, khi được thể hiện ra, đều bắt buộc phải
thông qua một quan điểm luận nhất định để giao tiếp và cũng để tự bảo vệ nó.
Chiếu theo nguyên tắc của qui luật vạn vật thống nhất, thì quan điểm của mỗi
ngôn ngữ là đầu mối để suy ra sự thành bại của tương lai hay sự đúng sai tức
thời của một ý nghĩa Hành Động.
Con người thường sống theo môi trường nào, thì có quan điểm sống theo nơi ấy.
Lấy quan điểm sống của môi trường này để áp đặt vào môi trường sống khác, thì
nhất định sẽ bị sự dị ứng phản hồi từ môi trường sau, nặng hay nhẹ tùy theo sự
tương phản giữa hai nội dung trên như thế nào.
Một môi trường sống đúng sẽ có quan điểm tác động thuận lợi vào môi trường sống
sai. Nhưng ngược lại thì sẽ khó khăn hơn, vì con người không dễ gì từ bỏ cái
đúng để nhận lấy cái sai, từ bỏ cái hợp tình, hợp lý và hạnh phúc để đổi lấy sự
vô lý và đau khổ, v.v...
Để xây dựng một xã hội mới ấm no và Hạnh Phúc cho mọi người bằng con đường hòa
bình, con người không thể dùng phương tiện nào hay hơn là sự tranh luận về các
quan điểm luận để phân biệt giữa cái sai và cái đúng, giữa các ý thức hệ khác
nhau về sự sống.
Ngày nay, trong đời sống con người và xã hội, để có thể lý giải hết ngọn ngành
nhân quả cho mọi vấn đề của sự sống, thì e rằng con người không sao có thể làm
nổi. Do đó, thông thường để nêu ý kiến giải quyết vấn đề, con người chỉ có thể
phỏng đoán những kết quả sẽ đến của vấn đề, theo một góc độ quan điểm luận chủ
quan nhất định nào đó.
Nếu quan điểm luận đó sai, thì khả năng dự đoán kết quả giải quyết vấn đề sẽ có
tỉ lệ thất bại cao. Nếu quan điểm luận đó đúng, thì khả năng dự đoán thành công
vấn đề sẽ cao.
Nhưng trong khi kết quả sai hay đúng của quan điểm đầu chưa xảy đến và trong khi
yêu cầu về thời gian để giải quyết vấn đề tiếp theo chỉ cho phép chọn một trong
nhiều quan điểm luận khác nhau để giải quyết, thì con người phải dựa vào cơ sở
nào để chọn ra được một quan điểm luận đúng nhất như mong muốn?
Thông thường con người sẽ chọn xem ai có thể chi phối bằng quyền lực nhiều nhất
trong tất cả, để lấy đó làm cơ sở chọn quan điểm luận giải quyết cho vấn đề.
Cách chọn như vậy đúng hay sai, thường con người khó có thể kết luận. Vì có
những vấn đề xảy ra một cách trừu tượng, không cụ thể, kéo dài và không tập
trung. Hay vấn đề xảy ra có khi lại do quá nhiều nguyên nhân tác động đến, nên
không thể suy ra quan điểm nào là chính đã tác động trực tiếp vào sự thất bại
hay thành công của một vấn đề.
Vì sự khó phân biệt đó, mà người tốt, người tích cực trong xã hội văn minh ngày
nay thường gặp khó khăn trong mục đích đánh giá và suy luận các vấn đề về sự
sống, con người, xã hội và ước mơ Hạnh Phúc đời người. Và vì thế, sự thành công
hay thất bại của quá trình phát triển của một cộng đồng nói chung, hay của mỗi
đời người nói riêng, sẽ xảy ra theo một xác suất ngẫu nhiên nào đó ngoài khả
năng chủ động của con người.
Sự thật, nếu con người chấp nhận sự vận động của xã hội loài người nói chung là
có qui luật, thì tất yếu mọi vấn đề từ qui mô chung nhất đến chi tiết nhất
trong môi trường xã hội đó, cũng sẽ phải tồn tại theo qui luật chung nhất định.
Tức là, mọi vấn đề cần được giải quyết trong sự sống con người và xã hội đều
bao giờ cũng có một lời giải chuẩn ẩn mình phía sau nó, trên cơ sở của một qui
luật căn bản nào đó.
Nếu có lời giải chuẩn cho mỗi vấn đề, thì ắt phải có quan điểm luận chuẩn cho
mọi vấn đề.
Nếu gọi Quan Điểm Luận Chuẩn chung cho mọi vấn đề, là Quan Điểm Luận Chuẩn của
tất cả các vấn đề. Nếu con người xây dựng được một Quan Điểm Luận Chuẩn chung
cho mọi vấn đề, thì ắt sẽ có nhiều khả năng lý giải thành công mọi vấn đề riêng
lẻ hay chi tiết vậy.
Quan Điểm Luận Chuẩn chung đó, được ngôn ngữ A xác định ưu thế thuộc về những
người có tâm số 0. Nhưng tâm số 0 là một khái niệm hoàn toàn vô hình và trừu
tượng, nên không thể là cơ sở cụ thể để xác định đâu là điểm xuất phát của một
Quan Điểm Luận Chuẩn.
Nếu gọi hòa bình là tiền đề của Hạnh Phúc và chiến tranh là tiền đề của đau
khổ, hay bạo lực là tiền đề của cái ác và không bạo lực là tiền đề của cái
thiện, thì bản chất sự sống con người bao giờ cũng thích và chọn hòa bình,
không bạo lực hơn là chiến tranh và bạo lực.
Như vậy, một Quan Điểm Luận Chuẩn là MỘT KHẢ NĂNG có thể giúp thống nhất mọi
quan điểm luận khác nhau của mọi người lại, trong hòa bình và không bạo lực.
Hay khả năng đó là, việc nhỏ cần có Quan Điểm Luận Chuẩn nhỏ để giải quyết hiệu
quả các vấn đề nhỏ, trong một không thời gian hòa bình và không bạo lực nhỏ;
nếu đó là một việc lớn, thì cần phải có một Quan Điểm Luận Chuẩn lớn để giải
quyết hiệu quả các vấn đề lớn, trong một bầu không khí ôn hòa, không bạo lực
trong một phạm vi không thời gian rộng lớn.
Như vậy, theo ngôn ngữ A, một Quan Điểm Luận Chuẩn khác với các Quan Điểm Luận
Không Chuẩn, là tùy ở khả năng tập hợp và đoàn kết được mọi quan điểm luận khác
nhau, để giải quyết được mọi vấn đề mâu thuẫn khác nhau, cho tất cả mọi người
khác nhau, trong mọi trường hợp khác nhau và không bằng mọi hình thức áp đặt
bạo lực khác nhau nào.
Và sự khởi đầu của một Quan Điểm Luận Chuẩn bao giờ cũng phải dựa trên nguyên
tắc cơ bản là những “GÓP Ý”, và giao quyền kết luận vấn đề về cho tất cả ai
đang đảm nhận vai trò chủ thể chính trong vấn đề đó.
Điều đó khác cơ bản với mọi Quan Điểm Luận Không Chuẩn khác, là thường nêu nội
dung giải quyết vấn đề ra trên nguyên tắc của các biện pháp “BẮT BUỘC”, để
giành quyền kết luận thay cho những người đang đảm nhận vai trò chủ thể chính
trong vấn đề đó.
Một Quan Điểm Luận Chuẩn luôn cho phép mọi kết luận giải quyết, dù đã được sự đồng
tâm nhất trí của tất cả mọi người, cũng đều có thể bị mọi cá nhân nào thấy cần
thiết phải phủ nhận nó bằng một quan điểm luận khác, trong bất kỳ thời gian nào
và bằng bất kỳ hình thức tranh luận bình đẳng và công khai nào.
Một Quan Điểm Luận Không Chuẩn thì không thể làm như thế, mà có khuynh hướng
kềm chế mọi quan điểm luận có nội dung đối lập khác, sao cho chúng đừng bộc lộ
những quan điểm bất đồng công khai, ở mức giới hạn tối đa, vì sợ sức mạnh chính
nghĩa của nó; nhất là, khi nó có nội dung phủ nhận những kết luận đã được thông
qua bởi số đông, hay nó sẽ xảy ra trước những người có quyền áp đặt các quan
điểm luận không chuẩn đó.
Tuy nhiên, do bản chất sự sống là vận động theo các Quan Điểm Luận Chuẩn, nên
mọi quan điểm luận khác dù có dùng bao nhiêu biện pháp và hình thức “bắt buộc”
và “bạo lực” ra sao, thì sự kết luận của Thời Gian cũng thuộc về các hệ của các
mô hình Quan Điểm Luận Chuẩn.
Chúng ta biết rằng, trong môi trường nào thì có quan điểm luận ấy chi phối. Nếu
gọi môi trường Quan Điểm Luận đang có là Không Chuẩn, thì ắt phải có một Quan
Điểm Luận Chuẩn nào đó có thể tác động vào môi trường trên một cách hiệu quả để
thay thế nó.
Tuy nhiên, do môi trường đang có là môi trường của Quan Điểm Luận Không Chuẩn,
nên Quan Điểm Luận Chuẩn bước đầu muốn dung thân vào đó cũng phải bị bắt buộc
biến dạng đi thành “không chuẩn hình thức”, nhằm hạn chế phần nào sức đề kháng
có tính loại trừ tự nhiên phát ra từ môi trường không chuẩn đối với mọi quan
điểm lạ hay mới khác.
Khi một Quan Điểm Luận Chuẩn bị biến dạng thành “không chuẩn” để dễ hòa nhập,
thì hình thức đó tức thời sẽ bị quan điểm luận không chuẩn tập trung lợi dụng
khai thác điểm nhược đó để tấn công, nhằm muốn đồng hóa bản chất “chuẩn” của nó
thành “không chuẩn” như mọi Quan Điểm Luận Không Chuẩn đang sẵn có phổ biến.
Sự tấn công đó nhất định sẽ là một khó khăn không nhỏ, trong quá trình thâm
nhập của Quan Điểm Luận Chuẩn vào môi trường Quan Điểm Luận Không Chuẩn.
Tuy nhiên, từ lâu, môi trường của Quan Điểm Luận Không Chuẩn, trong thực tế,
đang vận động và phát triển không phải trong “chân không” mà là trong một môi trường
vận động khác rộng lớn hơn, vĩnh cửu hơn; đó là môi trường của “Quan Điểm Luận
Chuẩn” do tạo hóa điều hành.
Vậy, sự xuất hiện của Quan Điểm Luận Chuẩn trong đời sống con người chỉ là sự
trở về của nơi, mà vốn sẵn đã của nó từ cái muôn thuở lâu lắm rồi. Bởi thế, ai
sẽ xua đuổi ai, nếu không phải là cái không chuẩn phải ra đi bằng một lời chào không
trở lại đối với nơi vốn không phải là của nó.
Có người hỏi, vậy cớ gì cái chuẩn trước đây phải ra đi để nhường chỗ cho cái
không chuẩn hoành hành. Đó là chuyện khác, chuyện của sự thay đổi tự nhiên của
các sắc thái tồn tại, vận động và phát triển của tạo hóa, từ chỗ KHÔNG CÓ Ý THỨC
sang CÓ Ý THỨC. Chính quá trình đó là nguyên nhân gốc để phát sinh ra môi
trường “Quan Điểm Luận Không Chuẩn” trong đời sống xã hội loài người một cách
tự nhiên và tất yếu.
Hay nói cách khác, “Quan Điểm Luận Không Chuẩn” là một Quan Điểm Luận Chuẩn,
nếu nó được xét từ góc độ của qui luật vận động để hình thành nên sự “có ý
thức” của tạo hóa tại môi trường tự nhiên của Không Thời Gian Trái Đất, mà
trong đó có loài người được giao nhiệm vụ tiếp nhận khả năng “có ý thức” đó của
tạo hóa.
Vậy sự cạnh tranh thế chỗ giữa một bên của các “Quan Điểm Luận Không Chuẩn” và
bên kia là các Quan Điểm Luận Chuẩn, thực chất chỉ là một sự thay đổi của một
Quan Điểm Luận Chuẩn bằng một Quan Điểm Luận Chuẩn kế tiếp khác trong dây
chuyền vận động phát triển của tạo hóa vậy thôi. Chúng là một chuỗi dài vô tận
của các Quan Điểm Luận Chuẩn của tạo hóa, được thay nhau đến vô tận để tạo nên
một thế cân bằng cho Cõi Vô Thức của con người với thế giới tự nhiên.
Điều trên lý giải và minh chứng cho hiện tượng: vì sao trong suốt một thời gian
dài các Quan Điểm Luận Không Chuẩn đã phát huy phần nào tính tích cực và hiệu
quả của nó, để góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng sự sống vô cùng sinh
động và đa dạng của thế giới loài người, để đạt đến mức sống phát triển phồn
vinh như ngày nay.
Mỗi môi trường xã hội là một tổng thể thống nhất. Do đó, nếu muốn xây dựng một
môi trường xã hội mới theo một hệ Quan Điểm Luận Chuẩn Mới, con người chỉ cần
đưa tham gia vào các Quan Điểm Luận Chuẩn cần thiết vào môi trường của mô hình
Quan Điểm Luận Chuẩn Cũ, thì tất yếu sẽ sinh ra sự biến đổi dây chuyền dần dần
đến đồng bộ và rộng khắp trong các môi trường xã hội khác nhau của thế giới
loài người.
Như vậy, với thời gian và số lượng Quan Điểm Luận Chuẩn Mới được tham gia càng
nhiều, thì kết quả chuyển động của sự sống con người và xã hội càng mau cải
thiện mức sống chừng ấy.
Tóm lại, tùy thuộc vào số lượng và chất lượng của quan điểm luận mới tham gia,
thì đời sống con người và xã hội sẽ tiến lên nhanh hay chậm.
Có người nói, tất cả hãy bắt tay vào việc, làm và làm, thì sẽ nhanh có kết quả
hơn là phí thời gian để tranh nhau các quan điểm luận. Đó cũng là một quan điểm
luận, nó đại diện cho khuynh hướng dùng sức mạnh bạo lực áp đặt hay chiến tranh
để giành ưu thế phần thắng về cho các kẻ mạnh thế, kẻ ác, v.v...; còn sự thất
bại, bất công và đau khổ thì mặc cho những kẻ yếu thế phải tự gánh chịu lấy! Con
người gọi đó là thứ quan điểm luận không khác gì kiểu của luật rừng xanh...!
Nhưng ở thời nào, bản chất con người cũng vẫn thích dùng luật của “sự sống công
bằng, văn minh và Hạnh Phúc” hơn bất kỳ thứ luật rừng xanh nào, mà thực chất
chỉ mang lại sự bất công, sự vô lý và sự đau khổ cho loài người mà thôi!
Vì thế, con đường làm sáng tỏ với nhau giữa các quan điểm luận khác nhau, phải
là một cứu cánh sống còn của loài người văn minh và tiến bộ vậy!
7. QUAN ĐIỂM VỀ MỘT CƠ CHẾ XÃ HỘI
Trong các xã hội ngày nay, vấn đề quản lý hiệu quả công việc chung cũng như việc
quản lý các tài sản chung, đang vẫn còn là một bài toán với nhiều nan giải.
Theo nguyên tắc, quản lý việc chung là nhằm đem lại lợi ích chung cho nhiều
người. Nhưng trong thực tế, con người vẫn có thể biến việc chung nhằm phục vụ
cho lợi ích riêng, nên từ đó nhiều vấn đề bị biến thành những tai họa cho con
người và xã hội. Nguyên nhân đó, trước hết có lẽ là vì người được giao phụ
trách việc chung đó bao giờ cũng “có quyền” hơn những người không được giao
việc ấy.
Nếu nay con người có thể biến mọi việc chung đều trở thành việc riêng, thì có
lẽ cái quyền hơn người kia sẽ biến mất và những tai họa vô lý, khó hiểu theo
kiểu như trên sẽ không còn phức tạp như trước nữa. Tuy nhiên, khi đã gọi là
công việc chung thì khó có thể lý giải biến hóa nó ra thành việc riêng, để mọi
việc đều trở thành sàn sàn như nhau một cách bình đẳng được.
Phải chăng vấn đề có thể được phân giải như sau: việc chung thật ra cũng là việc
riêng nhưng vì phải liên quan đến nhiều người, nên cần phải cử một người ra để
lo việc chung (và cũng là nhằm để lo việc riêng cho cá nhân đó). Bởi nhiều khi,
có những việc chung chỉ cần một người làm thì được việc, mà tất cả cùng làm thì
thành hư việc.
Cử người ra lo việc chung là việc không khó, nhưng bằng cách nào để có thể kiểm
tra người phụ trách việc chung có hoàn thành trung thực và hiệu quả trách nhiệm
được giao hay không, hay đã có che đậy những sai lầm nào đó, v.v..., thì đó là
chuyện xưa nay vẫn còn phải hao tốn nhiều giấy mực.
Lời giải cho vấn đề nên là: xã hội cần chú trọng cử người chịu trách nhiệm lo
việc tổ chức, sắp xếp cho mọi người được dễ dàng kiểm tra công việc chung mỗi khi
có yêu cầu. Điều đó quan trọng không kém việc đề cử người lo đảm trách việc
chung. Chúng ta có thể gọi người đó là THƯ KÝ của mọi người.
Muốn kiểm tra việc làm của người Thư Ký không khó, chỉ cần sau mỗi công việc,
nếu có người trong bất kỳ, khiếu nại người Thư Ký đã gây cản trở cho sự kiểm
tra công việc chung ấy, thì xem như người Thư Ký đó đã không hoàn thành nhiệm
vụ.
Trách nhiệm của người Thư Ký đó là phải biết tổ chức để mọi người dễ dàng có
thể kiểm tra được việc chung, nhưng không làm cản trở người đang làm việc chung
kia, mà vẫn đem lại sự thuận lợi và hiệu quả cao cho mọi yêu cầu kiểm tra.
Làm sao cho mọi sự kiểm tra không bị trùng lắp, không bị lạc hướng gây tốn kém,
lãng phí thời gian, công sức, tiền của, v.v...., tất cả đều là nhờ vào cái công
của người Thư Ký, cũng như cũng cần có sự giúp sức tạo điều kiện của người đang
thực hiện công việc chung do mọi người tín nhiệm giao cho.
Nếu chúng ta gọi người được cộng đồng chọn ra để lo giải quyết việc chung là
GIÁM ĐỐC, thì theo nguyên tắc tổ chức trên, người Thư Ký sẽ được đóng vai trò quan
trọng không kém gì người Giám Đốc. Vì đó là người quyết định đem lại sự trung
thực sự công bằng và sự phát triển vững chắc và thành công cho mọi công việc
chung của cộng đồng.
Nếu mọi người càng xem trọng vai trò của Thư Ký bao nhiêu, cũng tức là càng đề
cao ý nghĩa của sự giám sát giá trị hiệu quả của công việc chung bấy nhiêu. Một
Giám Đốc dù có muốn hay bị xúi giục làm việc gian dối, sai trái thế nào, cũng
đều không thể lo lót, mua chuộc được mọi người để che mắt hành vi của mình. Hành
động đó còn tốn kém hơn là cái lợi kiếm được... từ kết quả của việc làm sai
trái đó. Hơn nữa mọi người sẽ không bao giờ chấp nhận “bị lo lót”, để phải đổi
lấy sự sống bất công và đau khổ hơn (?!).
Như vậy, nếu tính theo cơ chế tổ chức trên, sự thành công hay thất bải của một công
việc chung sẽ không còn do một người hay do một thiểu số người toàn quyền quyết
định như trước nữa, mà là tất cả mọi người phải cùng đều gánh lấy trách nhiệm
một cách công bằng. Nhưng dù sao, trong đó, vai trò trách nhiệm trực tiếp trước
tiên vẫn thuộc về người Giám Đốc đã được đề cử ra để thực hiện công việc chung
trên, mà thường họ được chọn là vì đã bảo vệ thành công nhất phương án thực
hiện công việc chung đó.
Trong một môi trường mà mọi việc chung đều được giải quyết một cách trung thực
và nhanh chóng, thì số lượng tội ác và tội phạm sẽ giảm đi mau chóng, mức sống
của người dân sẽ được cải thiện rõ rệt.
Khi con người không thể làm sai trái trong việc chung, thì việc chung đó ắt sẽ
phải được tập trung chú ý thực hiện như việc riêng vậy. Vì vậy, từ đó con người
sẽ nhận thức ra việc chung cũng không khác gì việc riêng và việc riêng thực
chất cũng là việc chung.
Tất cả giống nhau trên một nguyên tắc: nơi nào có thể sinh ra quyền lợi thì nơi
đó nhất định phải có một cá nhân nào đó, được đề cử ra để chịu trách nhiệm quản
lý, và sử dụng hiệu quả nhất, những giá trị lợi ích đó như một sở hữu của riêng
tư vậy.
Và tất cả đều cần có một cơ chế tổ chức cộng với một ngôn ngữ quan hệ thích
hợp, thì cái ác, tội phạm, bất công và đau khổ mới được ngăn chận kịp thời.
Trong một môi trường tổ chức hợp lý và hiệu quả như thế, thì nhân cách con
người sẽ được hình thành thuận lợi và ngày càng được củng cố hoàn thiện hơn.
8. MỘT VÀI NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN
Ưu điểm lớn của ngôn ngữ A là xây dựng một môi trường sống mới chỉ bằng sự
tranh luận bình đẳng giữa mọi người, trong hòa bình, ôn hòa, tôn trọng, hợp lý,
khách quan và khoa học với nhau. Vì tất cả, cuối cùng sẽ phải chịu sự điều
khiển tất yếu của qui luật vận động của thế giới tự nhiên, trong đó có cả xã
hội loài người.
Chúng ta biết rằng, trong mọi sự thống nhất đều có thể phân chia ra thành hai
phần cơ bản có tính đối nghịch nhau, trong sự tương quan kết hợp thống nhất với
nhau. Vì thế, trong mọi sự tranh luận muốn mau đạt kết quả, thì con người cũng
nên cho hình thành ra một cách tự nhiên hai phía đối nghịch nhau, để tạo điều
kiện kiểm tra và hợp tác khách quan giữa chúng với nhau.
Trong cách phân chia đó bao giờ cũng xảy ra hiện tượng, bên đúng nhiều và bên
đúng ít, bên đúng bên sai, hay bên đại diện cho tính thiện và bên đại diện cho tính
ác theo cách hiểu nôm na. Mỗi bên như thế, bao giờ cũng đại diện cho một quyền
lợi nhất định, và cũng sẽ muốn bảo vệ quyền lợi đó đến thắng lợi cuối cùng.
Nhưng cho dù có xảy ra sự phân chia trên trong nhất thời tranh luận, thì nó
cũng không thể gây thành những mâu thuẫn đối kháng theo kiểu sống còn trong môi
trường B, mà nó chỉ vẫn là một phương tiện để giúp con người có thể đoàn kết
với nhau một cách hiệu quả hơn. Nếu ngôn ngữ A như là một phương thức hướng dẫn
sự sống của con người đi vào quĩ đạo vận động của xã hội một cách tự nhiên và
hợp lý nhất, thì quĩ đạo vận động của xã hội tất yếu bao giờ cũng phải dẫn đến kết
quả hợp nhất tất cả mọi người lại, một cách chân thiện và thống nhất. Do đó, sự
phân chia trên cũng chỉ như là một sự vận động tự nhiên của xã hội, mà cuối
cùng con người sẽ là người được thu lợi hơn cả từ sự có ý thức vận động theo
một sự phân chia đối nghịch khách quan và hợp lý như trên.
Áp dụng vào trong thực tế, chúng ta thấy từ lâu trong cuộc sống đã có một sự
phân chia tự nhiên và cơ bản nhất: đó là sự phân chia về “phái nam” và “phái
nữ”. Đó cũng là sự phân chia về hai khuynh hướng quyền lợi rất khác nhau cơ
bản, trong quá trình biểu hiện sự sinh tồn của mỗi phía về khái niệm Hạnh Phúc.
Có phải, từ lâu chính từ sự không công bằng và từ sự không sáng tỏ trong nhận
thức của con người trước hai khối quyền lợi cơ bản trên, mà xã hội loài người
đã trở nên lúng túng và bế tắc trước ước mơ xây dựng một tương lai phát triển
trong bình yên và Hạnh Phúc?
Thông thường, người ta vẫn cho rằng quyền lợi của người phụ nữ không được đối
xử công bằng như với nam giới. Điều đó có thể rất đúng sự thật. Nhưng không
phải vì thế mà không thấy rằng, quyền lợi của nam giới cũng có khi bị đối xử
bất công trước nữ giới?
Có phải từ lâu con người vẫn chưa tìm ra cách để phân chia và bảo vệ quyền lợi
đa dạng của mỗi phía một cách hiệu quả? Nhưng đối với ngôn ngữ A, vấn đề trên,
vấn đề của sự bình đẳng quyền lợi cho bên nam và cho bên nữ, đã tình cờ trở
thành như một tiền đề cơ bản, để ngôn ngữ A được ứng dụng hiệu quả nhất vào
trong thực tế cuộc sống con người và xã hội.
Điều đó có nghĩa: nếu mục đích của ngôn ngữ A là nhằm đem lại sự công bằng và
Hạnh Phúc cho mọi người, thì nguyên tắc trước tiên, ngôn ngữ A phải xây dựng và
bảo vệ thành công sự công bằng và Hạnh Phúc của cả hai giới tính trên, trong
quá trình phát triển của thế giới loài người.
Quyền bình đẳng tương quan của mỗi giới chỉ có thể trở thành hiện thực trong cuộc
sống, khi mà quyền phát triển ưu thế của mỗi bên được tôn trọng và được tạo
điều kiện phát triển hợp lý. Trong các ưu thế đó, bên nào có ưu thế về lẽ phải
quan hệ con người hơn thì bên đó sẽ có trách nhiệm xây dựng và duy trì các quan
hệ chung được thành công hơn, thông qua sự biểu hiện bình yên và Hạnh Phúc của
môi trường sống chung.
Bản chất có lẽ phải là cái tâm, sau cái tâm là ngôn ngữ, và trong ngôn ngữ là
phương pháp luận hay quan điểm lý giải về sự sống con người. Để cuối cùng, tất cả
sẽ thành công hay không, là nhờ vào quyền được tranh luận bình đẳng trong tự do
một cách có hệ thống, có tổ chức và phi bạo lực, có được mọi người tôn trọng
hay không. Điều đó cũng có thể được xem như là một nguyên tắc để con đường phát
triển nam nữ bình quyền được thành công trong hiện thực vậy.
Nếu mỗi bên nam hay nữ có cách nhìn riêng về lẽ phải để bảo vệ lợi ích phù hợp
với các đặc điểm riêng của phía mình, thì chúng ta có thể gọi bên này là “lẽ
phải nam” và bên kia là “lẽ phải nữ”. Tất cả chúng được phát triển lên nhằm đạt
đến đích cuối cùng là, Chân Lý Nam và Chân Lý Nữ hay Chân Lý (+) và Chân Lý
(–).
Như vậy, theo ngôn ngữ A, sự sống con người có hai loại chân lý, Chân Lý Dương
và Chân Lý Âm. Tùy theo mỗi con người nằm trong giới tính nào, thì sẽ phải suốt
đời chạy theo hay bị một chân lý tương ứng chi phối mãi mãi. Vai trò tác động
của mỗi chân lý được biểu hiện rõ, khi con người nhìn vấn đề từ góc độ số đông
trong điều kiện Môi Trường Sống Bình Thường, hay trong suốt cả chiều dài lịch
sử phát triển của xã hội loài người.
Bản chất của Chân Lý Âm là không dương, và bản chất của Chân Lý Dương là không
âm. Vì mọi sự phát triển của con người đều cuối cùng phải quay về với cái bản
chất nguyên thủy nội tại, nên tất cả mọi con người rồi cũng sẽ phải về với cái
Không Âm hoặc cái Không Dương của chính mình. Nơi đó còn được gọi là đỉnh cuối
Hạnh Phúc của mỗi sự sống đời người.
Từ cái chân lý Không Âm cộng với sự góp sức của cái Không Dương hay ngược lại, mà
tạo thành một điểm tựa bền vững cho con người phát triển về mọi mặt trong quân
bình để đạt đến sự thành công một cách lý tưởng.
Và chúng ta cũng có thể gọi đó là một nguyên tắc phát triển bền vững và tốt dẹp
của mỗi con người trong một môi trường sống của một mô hình xã hội mới.
Ghi chú, trong mỗi phía nam hay nữ (ông hay bà) cũng sẽ có thể được phân chia
thành hai phe cục bộ khác, bên có lương tâm và bên có quan điểm sống kém lương
tâm hơn. Khi đó, sẽ có sự kết hợp nhất thời giữa các giới nam và nữ cùng có các
khả năng sống theo các lương tâm tương đồng với nhau đó, để tạo thành một lực
phối hợp tích cực cho sự phát triển quan điểm luận tích cực, hòa hợp và thống
nhất phát triển trong mỗi nhánh, cũng như trong sự kết hợp chung của hai nhánh
(phía) phân chia cơ bản từ ban đầu, nam và nữ được thành công một cách lý tưởng
vậy.
+ Nếu gọi đỉnh cao của Hạnh Phúc là cái Có, thì điều kiện để cho Hạnh Phúc đỉnh
cao được bền lâu, là con người phải biết cách tính đến cái Không để làm nền cho
nó.
Do mọi tồn tại đều được tính là cái Có, nên khả năng nhận thức về cái Không sẽ
gần như là một vấn đề không thực tế. Nhưng vì muốn “Hạnh Phúc” sẽ thành hiện
thực tuyệt đối trong trước mắt, toàn diện và lâu dài, nên thực tế sẽ đòi hỏi
con người phải có khả năng qui đổi mọi cái “Có” thành như “Không”.
Tuy nhiên, do mọi cái Có không thể là cái Không, nên cuối cùng sự sống được
định nghịa như là sự giáp ranh của hai khái niệm Không và Có hay Có và Không.
Lúc cần thì nó sẽ có thể “có” tất cả, nhưng khi không cần, thì bao nhiêu cũng
sẽ có thể thành “không” tất cả.
Và chúng ta cũng có thể gọi đó là một nguyên tắc lý giải hay định nghĩa cơ bản
về sự sinh tồn của mỗi đời người. Biết và vận dụng hiệu quả nguyên tắc ấy, nó
sẽ giúp con người chủ động được con đường tiến thủ một cách thành công vậy.
+ Nếu gọi sự “tư duy” của con người như một “dòng điện” liên tục, thì “từ
trường” hay “ánh sáng” do dòng điện tạo ra, sẽ có nghĩa tương tự như các trạng thái
“cảm xúc” và các “Hành Động” được tạo ra bởi các dòng tư duy của con người.
Nếu xét đến cứu cánh của sự sống đời người, thì con người cần cái ánh sáng hay các
kết quả hữu ích do dòng điện tạo ra, chứ không phải cần đề cao giá trị dòng
điện một cách đơn thuần. Vậy tương tự, cái con người cần và quý trọng không
phải là các lý thuyết cao siêu đơn thuần, mà điều con người cần hơn cả bao giờ
cũng là những giá trị cảm xúc Hạnh Phúc cuối cùng, hay cũng là những kết quả
Hành Động hứng thú tích cực để vui sống trong suốt một đời người.
Nếu định nghĩa, sự vận động của não người được phân chia thành hai trung tâm
chính A và B, thì B được hiểu tương ứng với khái niệm về dòng điện và A được
xem như sự biểu hiện của kết quả dòng điện. Nếu vậy, dựa trên cách hiểu này,
thì bản chất sự sống con người sẽ phải chú ý lấy A làm tâm điểm kết quả, chứ
không phải chỉ quanh quẩn mãi tại B như là một tâm điểm độc tôn vận động cho ý
nghĩa sự sống của một đời người.
Mà A, như chúng ta đã biết, là vô hình, nó gần như là không thực và hư ảo,
trong khi B thì được xem như là rất thực và cụ thể trong khả năng tư duy nhận
thức thông thường của mỗi con người. Vậy, chú trọng A, không khác gì sự đặt
cược đời người vào cái “ảo hư vô”, sao bằng đặt cược vào các giá trị thực tế
của sự sống đời thường đang xảy ra tại B?
Nhưng nếu tạo hóa chọn A là nơi bắt đầu của mọi giá trị đời người, thì mọi sự
biết chọn A làm trọng tâm sẽ được tính thành “có thật”, và mọi sự chọn B sẽ bị
biến ngược trở lại thành “không thật hay không bền” vậy.
Giả thiết rằng tạo hóa đã chọn A làm trọng tâm, thì vấn đề còn lại của con
người, là làm sao phải xây A làm chính và đưa B xuống thành phụ. Điều đó sẽ
được tính là thành công hay không, phải chăng là tùy vào mỗi con người có biết
cách tạo mối quan hệ giữa B và A như giữa một bên là dòng điện và bên kia là
các hiện tượng từ trường và ánh sáng có ích hay không?
Và chúng ta cũng có thể gọi đó như là một hướng rèn luyện, để tạo nên một cơ
chế vận động của não người được đạt đến một nguyên tắc vận động tối ưu vậy.
+ Qui trình tiến hóa nhận thức của con người, phải chăng, được chính thức đánh
dấu sự phát triển trưởng thành của nó bằng sự hình thành các Lẽ Phải Vật Chất V
ban đầu, và tiếp theo là sự hình thành các Lẽ Phải Tinh Thần T có tính khoa
học. Và từ các Lẽ Phải Tinh Thần T có được, con người từng bước củng cố và hoàn
thiện hóa dần các mức sống Tinh Thần nói chung, để có thể từ đó xây dựng nên
một môi trường của các Lẽ Phải Vật Chất V Kiểu Mới, hay còn có thể gọi đó là
các Lẽ Phải Vật Chất Cơ Bản (hay Lẽ Phải Hạnh Phúc V).
Lẽ Phải Vật Chất Cơ Bản hay còn gọi là Lẽ Phải Sinh Tồn Cơ Bản, sẽ ngược lại
làm yếu tố giúp hoàn thiện hơn các Lẽ Phải Tinh Thần T theo hướng nâng tâm hồn
lên, thành một thứ lẽ phải tinh thần kiểu mới, mang tên Lẽ Phải Tinh Thần Phát
Triển.
Lẽ Phải Vật Chất Cơ Bản hay còn gọi là Lẽ Phải Cơ Bản, là kiểu lẽ phải tạo nên
một môi trường sống mà trong đó con người đã quen chú trọng hưởng thụ vật chất
một cách công bằng và hợp lý giữa mọi người với nhau, như một điều kiện căn bản
cho ý nghĩa sinh tồn của mọi sự sống con người.
Lẽ Phải Tinh Thần Phát Triển hay còn gọi là Lẽ Phải Phát Triển, là kiểu lẽ phải
tạo nên một môi trường sống mà trong đó con người lấy các giá trị hưởng thụ
thực tế làm ảo, và lấy các giá trị hưởng thụ tinh thần vô hình trừu tượng làm
thực như là một điều kiện chính của ý nghĩa về lẽ sống làm người ở đời.
Như vậy, có thể tóm tắt từ Ngôn Ngữ A: sự sống con người sẽ phát triển thành
công và toàn diện khi con người phải đạt trước tiên đến LẼ PHẢI CƠ BẢN để sau
đó tìm đến LẼ PHẢI PHÁT TRIỂN, như một thú vui lên mây về gió của kiếp... làm
người trên thế gian này vậy!
Và chúng ta cũng có thể gọi đó như là một nguyên tắc để đạt đến những thang bậc
đỉnh cao về Ý NGHĨA LÀM NGƯỜI nơi trần thế: nó có như không, không như có, để
cuối cùng sao cho cái “Có” trở thành có lợi nhất cho sự sống hiện tại và tương
lai của thế giới loài người.
PHẦN VIII
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG
1. SỰ NGHỊCH LÝ BAN ĐẦU
Nếu gọi bản chất sự sống con người được phát triển trên nền của “thói quen” để
từ đó làm tiền đề phát minh ra mọi sáng tạo, thì bản chất của “thói quen” là sự
lập đi lập lại các phản ánh của não người trước không thời gian.
Khi cho rằng bản chất của ngôn ngữ A là chú trọng rèn luyện thói quen nhận thức
của con người để tạo thành cái tâm mang giá trị (hp) trong cõi vô thức của mỗi
người, thì thời gian giá trị nhất để tạo một chuỗi thói quen ý nghĩa nhất đó,
là phải thuộc về thời gian rèn luyện từ tuổi ấu thơ của mỗi đời người.
Tuổi ấu thơ là tuổi của sự giáo dục và đào tạo tốt nhất, nhưng cũng là tuổi có
khả năng ý thức tự chủ kém nhất. Hay nói cách khác, đó là tuổi của sự sống nặng
về bản năng “tự nhiên, khách quan và phóng túng” hơn là có ý thức tập trung chủ
động điều khiển các ý muốn và Hành Động, theo một trình tự của một nội dung có
chủ đích rộng lớn và lâu dài nào đó.
Mặt khác, do bản chất của mọi sự giáo dục rèn luyện là đều đòi hỏi ít nhiều
phải đi dần vào một khuôn khổ trật tự có tổ chức càng lúc càng trở nên khắt khe
theo một nội dung và hình thức nào đó; nên nó luôn là yếu tố có nguy cơ đe dọa
sự sống phát triển hồn nhiên và Hạnh Phúc của mọi trẻ thơ đang lớn.
Vấn đề đã tạo nên một sự nghịch lý ban đầu, giữa một bên cần duy trì sự quý giá
của trạng thái hạnh Phúc hồn nhiên ban đầu của trẻ và bên kia là sự cần thiết
không thể chối cãi, huấn luyện cho trẻ đi dần vào một khuôn phép trật tự nhất
định nào đó.
Có chăng những đứa trẻ, ngẫu nhiên từ ấu thơ đã có thể tiếp nhận mọi sự giáo
dục của người lớn một cách ngoan ngoãn, tự nhiên, tích cực và tự giác như một
nhu cầu bú sữa mẹ chăng? Có lẽ lịch sử chưa bao giờ có được một trường hợp như
thế mà vẫn có thể đào tạo thành công một con người hoàn thiện.
Ngày nay, người ta cũng nói rất nhiều về các phương pháp giáo dục khoa học sao
cho mọi trẻ thơ có thể tiếp thu các nội dung giáo dục một cách hiệu quả, mà vẫn
không cảm thấy bị ức chế khó chịu trong môi trường rèn luyện đó; chúng như luôn
được cảm thấy rất vui thích, v.v...
Sự thật kết quả có hoàn toàn đạt được như thế không?
Sự thật có lẽ kết quả vẫn có thể đạt được hoàn toàn như thế; nhưng cũng sẽ không
hoàn toàn đạt được như thế trong một thời gian trước mắt, lâu hay chậm là còn
tùy.
Bởi sự khó khăn của vấn đề là do sự phát triển không đồng đều về khả năng nhận
thức của mỗi trẻ hay của mỗi người. Nên nếu có một chương trình giáo dục tối ưu
cho số người này, thì nó sẽ là không tối ưu cho số người khác. Nếu tính chi
tiết ra, mỗi thế giới nội tâm của mỗi người là không trùng lấp hai lần với một
thế giới nội tâm bất kỳ nào khác, thì xã hội có bao nhiêu người, là cần phải
được chuẩn bị bằng bấy nhiêu chương trình đào tạo đặc thù riêng lẽ tương ứng.
Yêu cầu đó phải chăng là một đòi hỏi quá sức trong điều kiện xã hội hiện nay?
Vì thế, phải chăng, chỉ khi nào xã hội có được một nền GIÁO DỤC NHÂN DÂN, tức
là mọi con người trưởng thành đều có đủ khả năng giáo dục “Sự Sống” với mọi trẻ
mới lớn, thì khi đó con người mới có được một nền giáo dục tối ưu vậy.
Một chương trình hay một phương thức giáo dục tối ưu là một phương pháp, mà
trong đó con người không cần dùng đến các biện pháp bạo lực (hay các hình thức
mang tính bạo lực nói chung) trong quan hệ giao tiếp giữa con người với nhau.
Ngược lại, một phương thức giáo dục kém hay một phương thức phản giáo dục là
trong đó, con người phải cần dùng đến sức mạnh của bạo lực từ ưu thế, để áp đặt
hay ép buộc như một điều kiện không thể thiếu cho các đối tượng đang cần được
giáo dục, để nhằm đạt đến một mục đích giáo dục nào đó.
Nếu xét bản chất con người theo tính khí, chúng ta có thể chia thành ba trường
hợp tính khí chủ yếu: một là, số người thích hợp với một phương thức giáo dục
nào đó; hai là, số người không thích hợp với phương thức giáo dục đó, nhưng vẫn
có thể chấp nhận ép mình phát triển theo khuôn trật tự “trái ý” đã được qui
định đó; ba là, số người không thích hợp và cũng không chịu ép mình vào khuôn
khổ trật tự áp đặt đó, mà luôn chờ cơ hội bộc phát ra thành các Hành Động “ngoài
khuôn khổ” qui định.
Xét vấn đề từ góc độ của ngôn ngữ A, thì mọi con người trong xã hội đều cần
phải đạt đến trình độ nhận thức của Lẽ Phải Cơ Bản, để chuẩn bị xây dựng thành
công một môi trường sống Hạnh Phúc toàn diện cho mỗi cộng đồng xã hội. Do đó, yêu
cầu đòi hỏi, mọi người trong xã hội phải có đủ ý thức tự giác chấp hành theo
một mô hình trật tự xã hội nhất định của một mô hình Lẽ Phải Cơ Bản nào đó, mà
không được có trường hợp ngoại lệ.
Vì vậy, vấn đề có nghĩa, trường hợp tính khí thứ ba trong cách phân chia trên
phải được con người tìm ra cách khắc phục hiệu quả.
Chúng ta biết rằng bản chất sinh tồn của con người là vận động. Trong sự vận
động của con người, bao gồm sự vận động trí óc và sự vận động cơ bắp của toàn
thân, thì sự vận động trí óc là có tính quyết định hơn cả đối với sự phát triển
“Nhân Cách” và “Hạnh Phúc” của mỗi đời người.
Vậy yêu cầu giáo dục đối với sự năng động của trí óc con người, là làm sao có
thể định hướng chúng từ sự vận động tùy tiện, tự do, phóng túng vô tổ chức hay thiếu
ý thức phối hợp với cộng đồng, thành sự vận động có ý thức tự nguyện, tự giác
theo một mô hình trật tự nào đó của cộng đồng.
Chúng ta cũng biết rằng, mọi con người sẽ trở nên tích cực vận động đi tìm thức
ăn khi bị cái đói đe dọa. Hay giữa cái “đau cơ thể” và sự “lôi cuốn của hưởng
thụ”, thì yếu tố của cái “đau cơ thể” thường có sức tác động trực tiếp hiệu quả
hơn là sức “lôi cuốn của hưởng thụ”. Hay sự đe dọa Sức Sống Cơ Bản bao giờ cũng
nhạy cảm hơn sự hấp dẫn tác động vào Sức Sống Dư Thừa, nhất là trong thời gian
đầu của tuổi mới lớn hồn nhiên của mỗi đời người.
Để tạo sự đe dọa đối với Sức Sống Cơ Bản của con người là một việc làm rất dễ,
rất không tốn kém, gần như ai cũng có thể làm được miễn là có một ưu thế bạo
lực nhất định trước đối phương hay trước đứa trẻ.
Ví dụ, cha mẹ có thể đánh, bỏ đói, chửi rủa, la mắng, v.v... đối với con cái,
người lớn khi có điều kiện ưu thế hơn cũng có thể đối xử với nhau như thế,
v.v...; nhằm muốn áp đặt hay bắt buộc điều gì đó đối với ai đó, phải biết vâng
theo các ý muốn của những người đang có ưu thế bạo lực kia.
Để biện minh cho các Hành Động trên, con người có thể nêu ra nhiều lý lẽ rất
thông dụng và phổ biến đến mức, người ta có thể tin rằng như thế là hợp lý một
cách hiển nhiên.
Ngôn ngữ A cho rằng mọi quan hệ mang tính bạo lực như ví dụ trên là sai trái, là
mầm móng gây nên các (khp) trong tiềm thức của con người. Tuy nhiên, nếu không
áp dụng một phần nhỏ của các biện pháp trên, thì e rằng mọi mục tiêu giáo dục
ban đầu cho trẻ thơ, sẽ thất bại trong điều kiện hiện nay như đã nêu ở phần
trên.
Như vậy, vấn đề đặt ra là, dùng bạo lực ở mức tối thiểu nào là có thể chấp nhận
được; biết rằng, mọi trẻ thơ đều không có khả năng đe dọa bạo lực lại đối với
người lớn, để tự vệ hay hạn chế chúng.
Trước hết, đối với người lớn, khi khả năng suy nghĩ đã trưởng thành, thì mọi
quan hệ bằng bạo lực trước đều cần phải được tránh xa tuyệt đối, nếu không muốn
nhận lấy những hậu quả khôn lường về sau; bởi mọi người lớn đều có thể dùng bạo
lực đáp trả lại một bạo lực áp đặt nào đó.
Đối với trẻ thơ, tuy không có khả năng đáp trả lại bằng bạo lực, nhưng sẽ đáp
trả lại bằng sự biến đổi nhân cách tích cực sang tiêu cực, bằng sự đánh mất khả
năng sống Hạnh Phúc của trẻ sau này, v.v...
Như vậy, sự bắt buộc phải dùng bạo lực tối thiểu đối với trẻ, trước hết phải vì
sự yêu trẻ hay vì sự lo lắng chăm lo tương lai của trẻ mà phải áp dụng. Và chỉ
những ai biết rèn cái tâm yêu trẻ, hiểu trẻ và biết cách chăm sóc cho trẻ cẩn
thận, mới có thể làm chủ được mức hành vi bạo lực tối thiểu kia.
Mọi mệnh lệnh mang tính áp đặt và ép buộc đối với trẻ, chúng ta gọi chung đó là
“bạo lực”. Một mệnh lệnh được truyền đến trẻ khéo đến mức mà trẻ không nhận ra
đó là một mệnh lệnh “khó chịu”, thì chúng ta không gọi đó là một bạo lực.
Nhưng, một hình thức không bạo lực mà có nội dung mang tính có hại cho sự
trưởng thành và Hạnh Phúc của trẻ về lâu dài, thì cũng bị gọi là một “bạo lực”.
Có những bạo lực xảy ra mang tính tích cực, nhưng cũng có những bạo lực mang
đặc tính của ý đồ tiêu cực rất rõ. Tuy nhiên, cả hai đều có hại cho trẻ, ở mức
nặng hay nhẹ là còn tùy vào các biểu hiện chung của mỗi sự việc.
Mức độ biện pháp bạo lực đối với trẻ có thể được chấp nhận ở mức độ, được giới
thiệu để tham khảo như sau:
- Mục đích của sự rèn luyện nhận thức cho trẻ là nhằm giúp trẻ có thể hòa nhập
vào môi trường sống xung quanh và đồng thời có được một trình độ nghề nghiệp
nhất định, để trẻ có thể tự chủ động khả năng sinh tồn tương lai của mình, đến
sự sống Hạnh Phúc trong môi trường sống xã hội về sau của trẻ.
Khi có yêu cầu phải thích nghi với môi trường sống trực tiếp trước mắt, trẻ có
thể sẽ cảm nhận và tự điều tiết được các nhận thức và Hành Động của mình theo
bản năng. Nhưng để hình dung ra vì sự sống của tương lai, hay vì một ý nghĩa
trách nhiệm đối với xã hội, gia đình, bản thân, v.v... thì đối với trẻ, có khi
đó là một yêu cầu vượt quá sức để ý thức ra vấn đề.
Vì vậy, để bảo vệ tốt Sức Sống tương lai của trẻ, người lớn phải tìm cách đe
dọa giả tạo đến Sức Cơ Bản trước mắt của trẻ, để trẻ dễ hiểu những yêu cầu rèn
luyện hiện tại bởi người lớn là cần thiết.
- Muốn đe dọa đến Sức Cơ Bản của trẻ, trước tiên phải là những lời lẽ lý giải
về ý nghĩa ích lợi của những nội dung giáo dục cần được truyền dạy nào đó, nếu
không đạt được sự rèn luyện đó thì hậu quả sẽ đến như thế nào v.v...
Sau nhiều cách lý giải hết sức đơn giản và dễ hiểu nhưng vẫn không đạt được kết
quả, chúng ta hãy thử tìm cách phân giản các nội dung đó ra chi tiết, đơn giản
và với tốc độ chậm hơn nữa, thì sẽ có nhiều khả năng đạt được kết quả tốt hơn.
Tuy nhiên, với kết quả đạt được như thế e rằng còn quá chậm so với yêu cầu thời
gian học tập cho phép của một hoàn cảnh... Vì lẽ đó, con người phải tạm “vay”
một ít bạo lực để tranh thủ lại thời gian, nhằm ý đồ muốn đạt được mục đích
giáo dục mà không để bị “quá trễ” cho tương lai của trẻ.
Đời người để mất thời gian thì vĩnh viễn không bao giờ tìm lại được. Nhưng có
thời gian mà sống đời vô nghĩa và không Hạnh Phúc, thì giá trị thời gian đó
cũng xem như đã bị đánh mất. Vì vậy, bạo lực quá thì làm mất Hạnh Phúc đời
người, nhưng không bạo lực thì không đủ thời gian để đào tạo một nhân cách biết
sống Hạnh Phúc, trong một môi trường như của lẽ phải V hiện nay. Đó là một mâu
thuẫn mà con người của mỗi thời đại cần phải hết sức thận trọng để hóa giải.
- Bằng một sự tính toán hết sức chi li, chúng ta có thể đưa ra kết luận như
sau: bạo lực, bằng phương pháp đánh đít, đánh tay, vỗ vai, tát khẻ, v.v... vừa
đủ, không quá nhẹ cũng không quá mạnh, để trẻ phải cố gắng tập trung đạt được
mức rèn luyện tối thiểu, mà người dạy biết rõ trẻ đó có thừa khả năng để đạt
đến kết quả học tập và rèn luyện đó.
Vấn đề giống như chuyện kể: có một con chim học bay, sau bao nhiêu bài học lý
luận thông suốt, giờ chỉ còn việc tự vỗ cánh bay thực tế, thì chim nhỏ cứ mãi
rụt rè không thể tự thắng sự yếu đuối của mình mà tiến lên để trưởng thành. Khi
đó, bất ngờ, một lời ra lệnh cương quyết hay một cái đẩy nhẹ cần thiết của chim
đầu đàn, thì chim nhỏ bị rơi bất ngờ và buộc phải tự vỗ cánh theo phản xạ và đồng
thời, đó cũng là lúc chim nhỏ đã tự bay được thành công như bài đã học.
Như trên, “bạo lực giáo dục” (tạm gọi tên như thế) chỉ có thể đúng duy nhất,
khi nó được phát ra vừa phải sau khi mọi khả năng cố gắng tích cực khác đã được
áp dụng, mà do đặc thù cá biệt một số trường hợp quá kém về khía cạnh tâm sinh
lý nào đó của số ít trẻ, nên đã bắt buộc người lớn phải dùng đến biện pháp cuối
cùng trên. Nó không khác gì phương pháp lấy độc trị độc, do đòi hỏi của một môi
trường hay của một hoàn cảnh sống nhất định.
- Tuy nhiên, vì là độc thì phải được dùng hết sức hạn chế, đồng thời phải lấy
kết quả trực tiếp trước mắt và sau đó để kiểm tra; và tốt hơn cả, nên giao nó
cho các nhà chuyên môn sử dụng hơn là mọi người ai cũng tùy tiện áp dụng nó, để
rồi có thể lạm dụng nó như để cho hả cơn giận của người lớn, hơn là thật sự vì
một tấm lòng tận tụy với trẻ. Hay có người lạm dụng “bạo lực giáo dục” chỉ vì
họ bị thiếu hụt khả năng kiến thức về nuôi dạy trẻ, mà cuối cùng thực chất là
biến trẻ thành như một công cụ nô lệ, thuần thục, ngoan ngoãn và tự giác trước
mọi sự “chỉ bảo” nặng về chủ quan và dễ gây sợ bởi những người lớn. Trong khi
vấn đề nên làm là, cần chuẩn bị cho trẻ khả năng tự sống độc lập tự chủ bằng
chính trên đôi chân của trẻ, cũng như đầy đủ khả năng hiểu ra mọi sai trái cho
dù, kể cả đó là những cái sai từ những người đã hay đang dạy mình. Bởi con
người chỉ có thể sống thành công bền vững từ thực tế của những chân lý khách
quan, chứ không từ bất kỳ một chân lý chủ quan nào được bày ra bởi con người.
Từ các công trình nghiên cứu về tâm lý học trẻ em của các nhà khoa học, ngôn
ngữ A đề nghị biện pháp “bạo lực giáo dục” đối với trẻ, chỉ nên áp dụng khi trẻ
đã phần nào phát triển về suy nghĩ, biết phân biệt đơn giản phải và trái, tức
là khoản từ 4 đến 7 tuổi. Sau đó, thì không nên hoặc hết sức hiếm khi áp dụng,
vì lúc này sự tự trọng và sự tự ái của trẻ đã đủ lớn để có thể biến thành những
tổn thương khó chữa lành sau này.
- Sự giới hạn biện pháp “bạo lực giáo dục” đối với trẻ còn có thể dựa trên nguyên
tắc như: chỉ vài lần trong năm, không nên quá từ năm đến mười lần trong cả quá
trình lớn lên của trẻ, mỗi lần cũng không quá 1 hay 5-10 phút và cũng không nên
bạo lực liên tiếp hai hay nhiều ngày liền, v.v...
Ngoài ra các lần sử dụng bạo lực giáo dục đó cũng cần được diễn giải ra công khai
với mọi người nhất là đối với trẻ đó, để mọi người dễ dàng tham khảo và góp ý,
v.v..., xem như thế là đúng hay sai.
Và biện pháp áp dụng phương pháp đó, phải sao cho trẻ hiểu lý do bị TÁC ĐỘNG
hay bị “bạo lực giáo dục” là để giúp trẻ vượt qua chính mình, chứ không vì bắt
trẻ phải “SỢ NGƯỜI DẠY!” - Nếu trẻ sợ người dạy, thì sau này trẻ sẽ sẵn sàng làm
sai chỉ vì trẻ bị ai đó làm cho sợ; còn ngược lại, trẻ bị tác động bạo lực là
vì trẻ hiểu: “SỢ” mình sẽ không đủ trưởng thành về nhận thức để đủ khả năng tự
chủ trong sự sống hiện tại và tương lai, như không làm mọi điều sai trái bất
kỳ, dù là mệnh lệnh đó từ đâu, và tích cực với mọi chân lý một cách tốt nhất.
- Ngoài ra, người dùng biện pháp bạo lực với trẻ, trước hết phải như là người
bạn thân thiết, gần gũi và đáng tin cậy của trẻ đó. Và sau mỗi lần tác động bạo
lực với trẻ, thì yêu cầu phải có sự thân thiện trên lại càng cao hơn, cũng như
là để xin lại sự cảm thông và sự tha thứ của trẻ đối với sự việc đáng tiếc đã
xảy ra, để hai bên có thể duy trì được mối quan hệ càng thêm tốt đẹp hơn.
Như thế cũng có nghĩa, mọi biện pháp bạo lực dưới hình thức đánh đập, la mắng,
chửi bới, mè nheo, v.v... rỉ rả từ giờ này sang giờ khác, từ ngày này sang ngày
khác, từ tháng này sang tháng khác, v.v... là điều hoàn toàn cấm kỵ. Chúng chỉ
gây cho trẻ bị ức chế tâm lý khổ sở, và không mang lại lợi ích thật sự về mặt
giáo dục trưởng thành cho trẻ.
Nếu trẻ sai thì bằng lý hay tình, xử phạt thế nào, tất cả nên gom lại phân minh
ra một lần, ngắn gọn và cụ thể. Và sự sòng phẳng phải trái, hay đúng sai đó,
cũng phải bằng thái độ tỉnh táo, bình đẳng, ôn hòa và cởi mở, v.v... trong cách
thể hiện, thì mới gọi là một nội dung giáo dục có ích. Còn ngoài ra sẽ không
khác gì sự áp đặt của một cái sai này lên một cái sai khác non kém hơn vậy
thôi!
Tóm lại, phải chăng sự tế nhị trong tính hai mặt của hiện tượng quan hệ bạo lực
trong giai đoạn đầu này, giữa con người với nhau, sẽ là mầm gieo có tính quyết
định đối với tương lai nhân cách của con người, cũng như cho sự hình thành hay
không một mô hình xã hội lý tưởng về sau.
Và cũng cần nhắc lại rằng, mọi con người thiện mà sử dụng không ngớt các biện
pháp bạo lực không đúng nội dung tích cực của nó, thì người đó sẽ sớm muộn cũng
dần trở thành một “kẻ ác” không hơn không kém!
2. QUÂN TỬ VÀ TIỂU NHÂN
Nói về cái học thời xưa, chữ nghĩa thánh hiền đã dạy con người trong đối nhân xử
thế, nên phân con người ta ra thành hai hạng: KẺ TIỂU NHÂN và BẬC QUÂN TỬ.
Trong cái học của thời đại tân tiến và văn minh ngày nay, hình như con người
rất chú trọng phân ra hại hạng người chính: hạng người tài trí, đỗ đạt hay giàu
sang và hạng người kém thông minh, chậm tiến, ngu muội, không có khả năng đỗ
đạt hay nghèo hèn.
Từ những đánh giá ban đầu trên, con người mới tính đến các cách đối nhân xử thế
sao cho phù hợp với các hạng người có các danh nghĩa tương ứng như trên.
So sánh cách nhìn của người xưa với người thời nay, thì người xưa cũng có quan
điểm sống gần giống với người thời nay, nhưng có phần chú trọng hơn về phần
giáo dục nhân cách con người. Phải chăng chính điều đó đã giúp người xưa đã đào
tạo được nhiều lớp người biết sống nghĩa khí hơn là những cách sống thực dụng
của những người hiện đại thời nay.
Xét vấn đề từ góc độ của ngôn ngữ A, thì cách đặt vấn đề của người xưa về giá trị
nhân cách con người rất hợp với cách đặt vấn đề của ngôn ngữ A vậy.
Người thời nay, phải chăng do bị choáng ngợp trước sự hấp dẫn trực tiếp của nền
văn minh vật chất hiện đại, nên đã chấp nhận đầu tư phần lớn sức người và sức
của vào sự chạy đua giành lấy những quyền lợi vật chất cụ thể trong tay, như để
xây dựng một niềm tin lý tưởng vào ý nghĩa của cuộc sống văn minh và hiện đại
thời nay là phải như thế; mà quên đi, bản chất thật của giá trị ý nghĩa chính
của sự sống con người là thuộc về cách sống hay quan điểm sống từ nhân cách của
mỗi con người. Đó phải chăng là một kiểu đầu tư vụng tính?
Vì vậy, ngày nay, trong ngôn ngữ A, con người cũng nên phục hồi lại kỷ năng xét
đoán con người như các người xưa đã biết áp dụng. Vậy thế nào là các khái niệm
Tiểu Nhân và Quân Tử, để nói lên hay chỉ ra khía cạnh giá trị nhân cách của một
con người.
Phối hợp với cách hiểu xưa, cách hiểu nay có thể được định nghĩa như sau: người
Quân Tử như là người dám làm dám chịu trách nhiệm, biết cách làm việc trước sau
như một, Hành Động có uy tín, một lời nói ra phải như “đinh đóng cột”, biết
“thương người như thể thương thân”, biết chú trọng trau dồi học tập để giúp
mình và giúp người, không phải là người cậy thế gây khó dễ bất hợp lý đến quyền
lợi người khác, là người biết trọng cái hay tránh xa cái dở, là người biết lấy
cái tâm để xử thế cho công bằng, là người biết sống vì Hạnh Phúc cho mình và
cho mọi người, là người có khả năng tranh luận trực diện, công khai với người
khác khi có yêu cầu, không đi nói xấu hay có những Hành Động bất công ám hại người
ngay khi đã bị thua về tranh lý và tình, là người dám bênh vực phía lẽ phải và
chống lại mọi sai trái, là người chọn cách làm việc, kinh doanh, sản xuất,
v.v... hợp với lẽ phải T, là người biết tôn trọng giải quyết mọi vấn đề theo
một thứ tự hợp lý trong sự ôn hòa và phi bạo lực, là người chủ trương giải
quyết mọi bất đồng bằng sự đối thoại bình đẳng, công khai và không áp đặt chủ
quan, v.v...
Như vậy, theo nội dung trên, người Quân Tử trong xã hội hiện đại là biết cách
làm việc công khai, ôn hòa, bình đẳng, phi bạo lực, sẵn sàng giúp đỡ mọi người
theo khả năng, v.v...; hay có tất cả những biểu hiện về quan điểm sống sao cho,
sự quan hệ với mọi người cũng như đối với bản thân được phù hợp với môi trường
sống của ngôn ngữ A.
Vì thế, để trở thành cách sống của một người Quân Tử thì có khi, bằng sự nổ lực
của một cá nhân không cũng chưa đủ, mà nó còn đòi hỏi cần phải có sự tạo điều
kiện nhất định của môi trường sống xung quanh.
Ngược lại để định nghĩa người Tiểu Nhân, thì tất cả những Hành Động biểu hiện
có tính trái hay cản trở đối với cách sống của người Quân Tử, đều qui về cho Kẻ
Tiểu Nhân.
Trong cuộc sống, người Quân Tử với nhau tất yếu phải tìm ra cách sống hòa thuận
và hợp tác tích cực với nhau. Ngược lại, giữa những người Tiểu Nhân với nhau sẽ
dễ xảy ra xung đột, mâu thuẫn bạo lực, hay khó có thể hợp tác bền vững hữu ích
và tin cậy tích cực với nhau, mà tất cả mọi sự quan hệ đều cuối cùng sẽ mang
tính đối kháng bằng bạo lực từ bản chất.
Sự mâu thuẫn giữa Tiểu Nhân và Quân Tử là luôn mang tính sai trái gây ra bởi
những người Tiểu Nhân, nếu đó là sự mâu thuẫn mang tính đối kháng. Nếu sự mâu
thuẫn trên là không đối kháng, thì đó là một tất yếu do sự chênh lệch về trình
độ sống giữa hai giới người trên mà trong đó, theo nguyên tắc, giới Tiểu Nhân
đang được học từ các mâu thuẫn để trở thành người Quân Tử dần.
Trong xã hội ngày nay, khi mà con người chỉ quen chú trọng cạnh tranh hơn thua
về các giá trị vật chất như một điều kiện tiên quyết của sự sống còn và sự phát
triển, thì hiển nhiên con người phải đặt quyền lợi giá trị tinh thần xuống hàng
thứ yếu. Điều đó dẫn đến hậu quả về cách sống của một số người ngày nay là dễ
phạm vào sự gian dối, lừa đảo, chụp giựt, v.v.... trong sinh hoạt, trong công
việc hay trong đời sống xã hội, gia đình, v.v... hơn là phải biết tôn trọng và chọn
cách sống ngay thẳng thật thà của một bậc Quân Tử hiện đại.
Vì vậy, trước hết mỗi người cần có sự tỉnh táo để định nghĩa lại xem, con người
cần gì và cần như thế nào đối với cuộc sống này. Sau đó, tùy theo kết quả định
nghĩa trên mà mỗi người sẽ ý thức ra yêu cầu phải xây dựng một môi trường sống
sao cho cách sống trở thành người Quân Tử thời đại được thuận lợi phát triển;
để có như thế cách sống của những mầm móng gian dối, tội phạm, v.v... mới dần
bị tiêu trừ tận gốc rễ.
Nếu so sánh ý nghĩa “quân tử” thời xưa với khái niệm Quân Tử thời nay, thì sự khác
nhau cơ bản phải chăng là: bên kia đề cao sự thật thà trung thực một cách hình
thức và máy móc, còn bên này của cái mới là đề cao tính trung thực phù hợp với
nội dung của qui luật tiến hóa chung, hay nôm na là phải xem trọng cái lợi ích
Hạnh Phúc cho sự sống của mọi con người là trên hết.
Hay chúng ta có thể tóm tắt, trong cuộc sống bao gồm hai cấp bậc thật thà trung
thực: một là cấp bậc THƯỜNG, theo nghĩa biết sao nói và làm vậy, đúng với cái
nghĩa hình thức đang có hay đúng với cái nghĩa đen của vấn đề; hai là cấp bậc
CAO, nó được diễn đạt trung thực và thật thà sao cho phù hợp với cái nghĩa
bóng, nghĩa bản chất hay nghĩa mang tính qui luật tiến hóa của vấn đề, so với
qui luật tiến hóa chung của xã hội loài người hay của tạo hóa nói chung.
Sự thật thà cấp bậc Thường được hiểu như những lời dạy dỗ của các bậc cha mẹ
đối với con trẻ. Sự thật thà cấp bậc Cao thường xảy ra trong các quan hệ của
giới người lớn, nó có thể mang tính gian dối về hình thức nhưng mang lại tính thật
thà về nội dung hay bản chất.
Nếu một quan hệ vừa đạt được tính thật thà trung thực ở cấp bậc Thường và cả ở
cấp bậc Cao, thì mối quan hệ đó nhất định sẽ đạt đến thành công vững chắc và
lâu bền. Nhưng điều đó lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh, môi trường, hay tùy
theo vấn đề và khả năng của mỗi người, v.v... Do đó, nhìn chung, khi con người
chỉ đạt được sự quan hệ thật thà bậc Cao, thì cũng được gọi đó là bậc Quân Tử của
giới người hiểu biết rộng, và đạt được sự thật thà bậc Thường thì gọi đó là bậc
Quân Tử của giới hiểu biết hẹp (thường đối với trẻ em), mà có khi nếu chỉ với
bấy nhiêu thì chưa đủ để gọi đó là một bậc Quân Tử đối với người đã trưởng
thành.
Mọi sự không thật thà ở bậc Thường đều có thể dễ dàng phát hiện qua mắt thấy,
tai nghe, v.v... một cách cụ thể, nên nhìn chung là dễ phát hiện. Mọi sự không
thật thà ở bậc Cao có khi rất khó phát hiện ngay bằng các biện pháp trên, mà
phải cần nhiều đến cái tâm thiện của mỗi người sau khi đã thông qua quá trình
rèn luyện về nhận thức, v.v...; hay ngoài ra cũng cần có các yếu tố khác như về
không thời gian để có đủ điều kiện phát hiện ra bản chất thật của một vấn đề
v.v..., để mới có thể suy ra được đâu là sự thật thà của một con người.
Nhìn chung, sự không thật thà bậc Cao chỉ có thể được khắc phục tốt nhất bởi
chính người đã cố ý muốn tạo ra sự không thật thà đó. Mỗi người phải tự phát
hiện ra sự sai lầm đó, không phải vì sợ ai khác bằng người đó sợ chính sự tự
hại tương lai Hạnh Phúc của bản thân mình, như một mâu thuẫn không thể chấp
nhận được.
Như vậy, sự không thật thà bậc Cao là một hiện tượng có thể rất khó bị phát
hiện trong nhất thời; nên nhiều người đã khá “dễ dãi” để cố tình lợi dụng chúng
mà kiếm lợi bất minh. Hay cũng có khi, vì thiếu khả năng hay thiếu điều kiện tìm
hiểu vấn đề v.v..., mà con người phải đành nhận làm người không thật thà bậc
Cao một cách bất đắc dĩ vậy.
Vậy nay, nếu chúng ta định nghĩa giá trị tinh thần còn quý hơn mọi giá trị vật
chất khác trong điều kiện nhất định nào đó, thì khi đó phải chăng, con người sẽ
tính toán lại xem có nên đạt danh nghĩa làm người Quân Tử sống ở đời, hay là
làm kẻ Tiểu Nhân để thiệt thân?
Tóm lại, người xưa đi tìm cái danh quân tử có khi chỉ vì cái lợi “danh” mà đạt;
nên khi đã đạt được “danh” mà lòng vẫn như còn bao rối bời. Ngày nay, nếu con
người có muốn đạt đến bậc Quân Tử, thì không phải vì “danh” là chính (bởi có
mấy ai hiểu?), mà trước hết là vì giá trị thật của mức sống Hạnh Phúc của mỗi
đời người đến mọi người. Vì vậy, khi đã đạt đến cái nghĩa sống Quân Tử của thời
đại, thì con người không mấy khi được danh, nhưng con người sẽ thấy được trong lòng
một khả năng sống dễ chịu, hữu ích và Hạnh Phúc.
Có hình thức mà không có nội dung, thì hình thức kia sẽ thành vô nghĩa, và sự
tồn tại của nó cũng sẽ bị chóng tan. Có nội dung mà không có hình thức, thì nội
dung sẽ là gốc để tạo ra mọi hình thức không khó, và như thế sự tồn tại kết hợp
của cả hai yếu tố trên mới trở thành trường tồn.
Trước những lập luận như trên, ngôn ngữ A cho rằng: tất cả hãy trình bày ra để
mọi người được tỏ tường và để cùng chọn xem có nên làm người Tiểu Nhân hay làm
người Quân Tử thời đại đây?
3. TÍNH CHẤT CỦA SỰ THAY ĐỔI
Thường trong các lịch sử xã hội, để có một sự Thay Đổi về “TỰ DO” trong phạm vi
của một xã hội hay một quốc gia, người ta thường thấy chúng luôn được bắt đầu
bằng những cuộc đấu tranh sống còn, thông qua các mất mát to lớn về nhân mạng
và về các giá trị của cải vật chất khác.
Nhưng vấn đề của sự Thay Đổi ở đây, nếu có, sẽ không là những đối đầu mất mát
nặng nề như bao lần đã xảy ra, mà sẽ chỉ là những diễn biến ngấm ngầm trong bình
yên và trong tăng trưởng. Nếu có sự mất mát đáng kể nhất, thì đó là sự mất mát
của những nếp sống theo các thói quen cũ không có lợi, bằng một nếp sống của
những thói quen mới có lợi toàn diện cho sự sống con người.
Nếu mọi sự Thay Đổi trước đây được bắt đầu bằng những bạo lực để chứng minh thế
phát triển tất yếu của nó, thì nay sự Thay Đổi sẽ được bắt đầu bằng TÍNH TẤT
YẾU TRONG NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI.
Như vậy, nếu mọi sự Thay Đổi trước đây là nhằm đạt đến một sự hợp lực của nhiều
người để tạo nên điều kiện chính cho vấn đề, thì nay nó cần đến sự chuyển biến
riêng tư từ trong nội tâm của mỗi người, để làm điều kiện chính cho sự thành
hay bại của bài toán xã hội loài người.
Nếu ngày xưa người ta chỉ cần sự a dua theo số đông, thì đã có thể đóng góp
phần tích cực của mỗi người cho một sự nghiệp Thay Đổi; nhưng nay như thế là chỉ
có hại cho sự nghiệp, mà tất cả cần ở sự trưởng thành từ chính nơi cái tâm bản
chất trong nhận thức của mỗi con người. Đó mới là điều kiện vững chắc nhất, bất
di bất dịch hay vĩnh cửu nhất cho một sự nghiệp Thay Đổi được thành công lâu
bền nhất.
Nếu mọi cuộc chiến Thay Đổi đều cần đến vũ khí, thì nay vũ khí của cuộc chiến
sẽ là những lời lẽ đúng sự thật, đúng với qui luật phát triển, và đúng với bản
chất nhu cầu sống Hạnh Phúc của mọi con người.
Nếu ngày xưa mỗi người không tìm thấy vũ khí, thì sự tham gia chiến đấu có thể
bị bế tắc. Ngày nay, sự nhận thức cộng với cái tâm tích cực của mỗi con người
cũng đủ để tạo thành một thứ vũ khí rất hữu hiệu. Do đó, trong sự nghiệp Đổi
Thay này, nếu được thể hiện thành hiện thực, thì mọi người, từ trẻ thơ đến
người già, đều sẽ không khó trở thành “mỗi người là một chiến sĩ”, bởi mỗi
người sẽ là một chiến sĩ đấu tranh đi tìm giá trị Hạnh Phúc trước tiên cho
chính bản thân họ.
Nếu ngày xưa, mọi cuộc chiến đều cần đến những vũ khí bí mật, những phương án
tác chiến bí mật, những cơ sở bí mật, v.v... thì nay, vũ khí lớn nhất cho sự
Thay Đổi là phải công khai hóa càng nhiều càng tốt mọi sự thật cần cho sự phát
triển của con người và xã hội.
Nếu trong mọi sự nghiệp Thay Đổi trước đây, người ta luôn tìm ra kẻ thắng người
thua, thì trong sự nghiệp Thay Đổi ở đây, mọi người đều sẽ có thể là người thua
và mọi người cũng đều sẽ có thể là những người chiến thắng. Song, nhìn chung,
nếu bản chất của qui luật tiến hóa của loài người là luôn tiến về phía trước;
vậy thì, mọi người trước sau gì cũng đều sẽ trở thành tất cả là những người
chiến thắng.
Nếu gọi sự tồn tại của loài người là “vật chất”, thì sự lý giải về ý nghĩa tồn
tại của loài người trước tạo hóa vô cùng là “tinh thần”. Tùy theo nội dung hay cách
lý giải đó, mà con người sẽ biến ý nghĩa sự tồn tại của nhân loại thành mang
nặng tính vật chất hay mang nặng tính tinh thần.
Một sự lý giải đúng thì sự phát triển tinh thần của con người sẽ trở nên bền vững,
hợp cùng với sự phát triển của vật chất ắt sẽ tạo nên một sự phát triển toàn
diện, vững chắc và ổn định cho xã hội loài người. Nếu sự lý giải đó là sai hay
mới đúng tương đối, thì mọi sự phát triển tinh thần hay sức sống chung của toàn
xã hội sẽ phải bị nhiều trở ngại.
Sự lý giải đúng nhất là sao cho mọi người đều có thể đồng ý về sự lý giải đó, để
từ đó mỗi người có thể dùng nó làm phương tiện lý giải cho sự sống riêng và
chung được phát triển, cũng như trong khả năng tự vệ trước mọi lý giải bất hợp
lý khác.
Hay từ lâu, con người đã tìm ra nhiều cách lý giải hiệu quả về quyền sống “độc
lập và tự do” cho mỗi quốc gia, thì nay sự lý giải đó phải đạt đến tiêu chuẩn
“Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” cho từng cá nhân một, trước mọi sự tác động
khác nhau của các quyền lực hùng mạnh khác nhau trong môi trường sống của mỗi
cá nhân đó.
Như vậy, tính chất của sự Thay Đổi còn là sự Thay Đổi từ giai đoạn xây dựng các
giá trị lý tưởng mang nội dung kêu gọi chung chung để đạt đến các mục đích sống
tổng thể nào đó, thì nay đã đến giai đoạn phải chứng minh ra một cách cụ thể,
đâu là các ý nghĩa và lợi ích thực tế mà mỗi con người sẽ có thể đạt đến trong
đời, phù hợp với mỗi cảnh đời cụ thể, trong một không thời gian cụ thể, của mỗi
cá nhân họ.
Tính chất của sự Thay Đổi còn là, từ giai đoạn đề cao quyền lợi của một số
người có ưu thế, nó được tạo nên do khách quan hay do có cộng thêm sự tích cực
rèn luyện chủ quan của các cá nhân đó để thành “hơn người”, sang giai đoạn đề
cao quyền lợi sống của mọi con người cụ thể, đang có những nhu cầu sống cụ thể,
hợp tình, hợp lý, phù hợp với các Lẽ Phải Hạnh Phúc đời người như trong cách
của ngôn ngữ A đã giới thiệu.
Tính chất của sự Thay Đổi còn là sự chuyển biến từ giai đoạn, con người xem kết
quả bầu cử như một hình thức thủ tục, còn mọi diễn biến đời sống thực tế như luôn
nằm ngoài sự chủ động của mọi người; sang giai đoạn mọi người đều ý thức được
sự diễn biến tất yếu của các kết quả “bầu cử” theo khả năng chủ động của mọi
người, thay vì phải lệ thuộc vào sự sắp xếp chủ quan của một thiểu số người hay
của sự may rủi.
Hay tính chất của sự Thay Đổi còn là sự thay đổi từ giai đoạn, sự lãnh đạo của
thiểu số người trước cộng đồng bằng bạo lực, sang sự “lãnh đạo” của thiểu số
người trước cộng đồng bằng sự ý thức trách nhiệm tổ chức cho mọi người tự chủ động
lãnh đạo với nhau, như một lời giải tối ưu cho sự sống của loài người văn minh
hiện đại theo đúng nghĩa của nó.
Mà vì thế, tính chất của sự Thay Đổi còn là, từ sự không tất yếu sang sự tất
yếu phải có một tổ chức “gia đình” cho mọi con người đang tồn tại như một điều
kiện cơ bản phải có, để mọi người đều được “an cư lạc nghiệp” trong tiến trình đi
tìm giá trị Hạnh Phúc của mỗi đời người, trong môi trường sống của một xã hội
mới.
4. SỰ THAY ĐỔI TỪ TỔ CHỨC
Sau giác ngộ phải là “Tổ Chức” để Hành Động hay để tạo điều kiện thực hành cách
sống mới theo một định hướng đã định.
Phải chăng bản thân sự sống là không quá khó như thực tế đang diễn biến. Vậy có
phải sự khó khăn đó là do chính các kinh nghiệm sống khác nhau của các bậc
“tiền bối” khác nhau đã vô tình trộn “lộn xộn” giữa chúng lại vào với nhau, để
biến thành một thứ thành quả “KHÔNG DỄ SỐNG” cho các thế hệ con người hậu bối
ngày nay.
Hay với các kinh nghiệm sống của con người ngày nay, thì sự sống không đến nỗi
phải quá khó để giải quyết; tuy nhiên, nó đã trở nên rất khó khi con người phải
đối phó trực diện với các thói quen tâm lý sai lầm, mà mỗi người gần như không
thể hiểu từ bao giờ nó đã được cài đặt sẵn vào trong trí óc mỗi người hay trong
mỗi xã hội.
Sự hợp sức lại sẽ giúp con người có điều kiện chỉ nhau và nhắc nhở nhau hay
giúp nhau về cách sống đúng. Vì sẽ có một lúc nào đó trong cuộc sống, mỗi người
sẽ có thể gặp phải điều khó vượt ngoài khả năng tự lý giải, thì khi đó, vai trò
của cơ cấu tổ chức được lập ra, sẽ phải có trách nhiệm lý giải hiệu quả cho mọi
vấn đề trở ngại xảy ra trong cuộc sống của mỗi con người đó.
Muốn có một sự lý giải hiệu quả cho một vấn đề phức tạp của sự sống, thì mỗi
con người phải có một số vốn về thói quen nhận thức từ các Quan Điểm Luận
Chuẩn, đối với môi trường mà mình đang sống trong đó.
Do đó, nền tảng của tổ chức là mở các lớp hướng dẫn tìm hiểu về ngôn ngữ A theo
khả năng và trình độ sống đặt ra của mỗi người.
Bản chất của ngôn ngữ A vừa là vì sự phát triển sự sống, cũng như vừa là vì sự
tạo niềm tin giúp đỡ giữa con người với nhau. Vì vậy, trong sự hợp sức trên sẽ
hình thành ra các mô hình tổ chức theo nhiều nội dung khác nhau, để mọi người
có thể nhờ nhau và giúp nhau một cách hiệu quả và hợp lý nhất, như một tiền đề
để kiểm chứng về sự hữu ích của ngôn ngữ A.
Khi các hình thức hoạt động đa dạng ngoài xã hội đã được thể hiện dần từng bước
đầy đủ vào các mô hình tổ chức trên, thì nó sẽ hình thành ra một mô hình hoạt
động khép kín thứ hai trong một xã hội. Trong dạng hoạt động thứ hai này, con
người sẽ có điều kiện chủ động hơn để làm chủ mọi hiện tượng bất lợi đối với sự
sống con người, so với điều kiện môi trường tổ chức của bên ngoài xã hội lúc
bấy giờ.
Tất cả sự thành công của vấn đề là tùy vào sự cung cấp nội dung nhận thức của
tổ chức ngôn ngữ A cho con người ra sao, để nó sẽ có thể làm thay đổi thói quen
nhận thức của con người về sự tương quan giữa các giá trị vật chất với các giá
trị tinh thần đối với đời sống con người là như thế nào.
Trong quá trình Thay Đổi, thì giai đoạn Thay Đổi chuyển tiếp sẽ gặp một trở
ngại đáng chú ý, đó là sự chuyển tiếp từ giai đoạn quan hệ có bạo lực sang giai
đoạn quan hệ không bạo lực giữa con người với nhau. Để vượt qua trở ngại trên,
con người phải tìm ra cách giải hiệu quả giữa một bên cần một lượng bạo lực
nhất định và phù hợp để triệt tiêu các bạo lực vô lý, phát sinh từ bản chất của
các cách sống cũ của con người; và bên kia là vấn đề không còn dùng bạo lực và
khả năng khắc phục các mặt tiêu cực của quá trình sử dụng bạo lực trong giai
đoạn trước để lại, để sao cho con người quên và mất dần đi thói quen quan hệ
bằng bạo lực đã có từ lâu trong các quan hệ giữa con người với nhau.
Vì vậy, ý nghĩa của Tổ Chức, trước tiên còn là nhằm mục đích đặt điều kiện qui
ước ngay từ đầu, đó là sự loại bỏ một cách triệt để và vô điều kiện mọi tính
chất quan hệ bạo lực giữa con người với nhau, trong môi trường tập hợp kiểu mới
này.
Trong môi trường tập hợp mới, sự Thay Đổi đầu tiên là sự Thay Đổi về nhận thức
và về thói quen của một cách sống cũ sang một cách sống mới. Khi nhận thức và
cách sống được dần dần thay đổi, thì con người mới làm quen dần cách quan hệ
tôn trọng nhau, bình đẳng, không uy quyền bạo lực với nhau, và sẵn sàng giúp đỡ
nhau một cách hiệu quả về hình thức cũng như về thực chất nội dung của yêu cầu
cuộc sống.
Khi một phạm vi tổ chức nhỏ đạt được hiệu quả quan hệ như vậy, thì tất yếu nó
sẽ lan dần ra thành một tổ chức lớn hơn theo không thời gian. Và khi đó, giá
trị Hạnh Phúc mỗi đời người mới thật sự được củng cố theo chiều rộng và chiều
sâu, tỉ lệ thuận với quá trình phát triển đó.
Sự thay đổi nhận thức của con người, trong môi trường ngôn ngữ A, được sắp xếp
theo trình tự: trước hết là những nhận thức phản xạ chưa có khả năng lý giải, được
gọi là giai đoạn NHẬN THỨC VẬT CHẤT hay nhận thức mang tính vật chất, sau đó là
những nhận thức có kèm theo các khả năng lý giải các sự việc hay hiện tượng
đang xảy ra, gọi đó là giai đoạn NHẬN THỨC TINH THẦN hay nhận thức mang tính
tinh thần.
Khi con người đã có được các khả năng lý giải trên bằng một ngôn ngữ nhất định,
thì sự lý giải đó sẽ có khuynh hướng đề cao giá trị vật chất là trên hết hay
gọi đó là SỰ LÝ GIẢI VẬT CHẤT, trước khi có sự lý giải đề cao giá trị tinh thần
làm nền tảng. Cách lý giải sau, chúng ta gọi đó là SỰ LÝ GIẢI TINH THẦN (thuộc Lẽ
Phải Cơ Bản - trong phần VII. ch.8)
Như vậy, theo ngôn ngữ A, sự sống Hạnh Phúc đời người phải là sự học tập và rèn
luyện của mỗi người, để sao cho có sự thay đổi từ những khả năng thói quen lý
giải cuộc sống theo các Lý Giải Vật Chất, được hình thành ngẫu nhiên ban đầu,
sang khả năng lý giải cuộc sống theo thói quen của các Lý Giải Tinh Thần, được hình
thành theo sự chủ động có ý thức của con người.
Tiến trình thay đổi đó sẽ thành công, chỉ khi chúng được diễn biến theo một
trình tự của sự tự giác, tự nhiên, và tất yếu phải được xảy ra từ trong bản tâm
nhận thức của mỗi con người, trong điều kiện của môi trường tập hợp trên. Tất
cả xảy ra phải như một sự ước mơ tự nhiên và tích cực nhất, cũng như bằng tất
cả tâm trí, ý chí và nghị lực sống còn của từng con người đó, nhằm đạt đến một
cuộc sống Hạnh Phúc, lương thiện và tích cực nhất, mà mỗi con người đó đã từng
hy vọng đạt đến.
Khi nói Hạnh Phúc đời người được hình thành từ sự chính thiện, mà sự chính
thiện có bản chất hình thành từ khả năng Lý Giải Tinh Thần của mỗi con ngươi
đó; thì sự Hạnh Phúc và sự chính thiện của mỗi đời người chỉ hoàn thiện, khi
mỗi đời người đã phải trải qua giai đoạn chủ động thay đổi thói quen nhận thức hay
cách sống của mình, theo một trình tự đã được nêu gợi ý như thế nào đó từ góc
độ của ngôn ngữ A.
Sự Thay Đổi về nhận thức, trong môi trường ngôn ngữ A, được tính trên cái tâm
hay trên bản chất nhân cách của con người đang được phát triển theo ngôn ngữ
nào. Do đặc tính của mọi cái tâm hay bản chất nhân cách con người là vô hình và
trừu tượng, nên mọi con người chỉ có thể làm thay đổi nó bằng một sự thành tâm
tích cực nhất của mỗi người, để nhằm đạt đến một ước mơ lý tưởng nào đó từ một
ngôn ngữ nhất định; nếu không vậy, con người sẽ khó có thể chủ động đạt đến đích
mong muốn của sự chọn lựa đó. Trong ngôn ngữ A, sự thành tâm tích cực đó càng
được chú trọng và càng được đòi hỏi cũng không kém như vậy.
Biết rằng giữa một sự thành tâm tích cực và sự không thành tâm tích cực, cũng
đều vẫn có thể dẫn con người đến thất bại trong ước mơ Hạnh Phúc đời người, nếu
phương tiện chọn vẫn còn là ngôn ngữ B. Hay có nghĩa là, con người, ngoài sự
thành tâm tích cực trong cuộc sống, còn phải biết chọn ngôn ngữ A làm phương
tiện, thì phải chăng mục đích sống đời người mới càng trở nên sáng tỏ hơn.
Sự không thành tâm hay sự sai lầm trong cách lựa chọn phương tiện ngôn ngữ, sẽ
có thể được phát hiện bởi người có mức sống thuần thục về ngôn ngữ A: hay bởi
sự công khai hóa các biểu hiện nhận thức có hệ thống của người đó ra trước
nhiều người hay đến mọi người; hay trước không thời gian, qua các biểu hiện từng
phần hay toàn diện các quan điểm của người đó về các kết quả Hành Động, các
cách Hành Động, v.v... của người đó đối với mọi người, hay cũng có thể đối với
chính bản thân người đó.
5. CON NGƯỜI ĐANG SỐNG NHƯ THẾ NÀO
Để đưa ngôn ngữ A thâm nhập vào ngôn ngữ B, vấn đề không tránh khỏi là tìm hiểu
sự sống con người đang xảy ra như thế nào, trong các nhu cầu thực tế đời sống
hằng ngày hiện nay.
Nhu cầu thực tế của đời sống con người trong một xã hội văn minh là rất đa
dạng, không dễ mấy ai thống kê và hiểu hết được. Nhưng nếu không hiểu ở mức tối
thiểu, thì sự thâm nhập từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác sẽ không
tránh khỏi thất bại, nhất là chỉ bằng phương tiện phi bạo lực.
Nếu gọi bản chất sự sống của con người là do bắt đầu từ cái tâm của con người
mà thành, thì phải chăng khi con người hiểu được cái tâm con người thì sẽ có
thể hiểu được tất cả. Tuy nhiên, do bản chất sự sống con người là luôn biến
động, nên vì thế, khả năng nhận thức của con người về sự sống chỉ có thể là cái
chung, cái tổng quát; còn cái chi tiết cụ thể thì phải chăng, chỉ khi nó xảy ra
thì con người mới có thể nhận biết được.
Song, khi con người có thể biết được cái chung, thì khả năng để con người dự
đoán được sự sắp xảy ra của những cái riêng lẽ sẽ rất lớn.
Nếu gọi sự hiểu biết về các cái chung, nói chung, là những hiểu biết về các Nhu
Cầu Lớn, thì sự hiểu biết về những cái riêng lẽ tương ứng với các hiểu biết về các
Nhu Cầu Nhỏ.
Như vậy, vấn đề là ngôn ngữ A nên thâm nhập vào ngôn ngữ B bằng con đường của
các Nhu Cầu Lớn hay bằng con đường của các Nhu Cầu Nhỏ?
Chúng ta biết rằng mọi Nhu Cầu Lớn đều có gốc hình thành từ sự tập hợp của các
Nhu Cầu Nhỏ lại. Tuy nhiên, như đã chứng minh về ý nghĩa của các ngôn ngữ quan
hệ, các Nhu Cầu Lớn khi tập hợp được sẽ rất có thể trở thành mâu thuẫn và chống
lại các Nhu Cầu Nhỏ. Đó cũng chính là bài toán khó cơ bản của các xã hội văn
minh ngày nay vậy.Do đó, khi chọn con đường của các Nhu Cầu Nhỏ để thâm nhập,
thì ngôn ngữ mới sẽ dễ bị trở thành đối thủ cần phải được triệt tiêu bởi các
thế lực có trong các Nhu Cầu Lớn. Ngược lại, nếu chọn con đường của các Nhu Cầu
Lớn để thâm nhập, thì quyền lực có trong các Nhu Cầu Nhỏ cũng sẽ không tha cho tính
đối nghịch “ăn theo” đó của ngôn ngữ mới.
Tuy nhiên, về lý thì mọi Nhu Cầu Lớn đều lấy danh nghĩa của các Nhu Cầu Nhỏ mà
tồn tại hoặc để vận động phát triển. Như thế, con đường thâm nhập của ngôn ngữ
mới phải là: về lý hình thức thì đi theo con đường của các Nhu Cầu Lớn, nhưng
về nghĩa nội dung thì đi theo con đường của các Nhu Cầu Nhỏ.
Vấn đề trên có nghĩa trong thực tế là, về lý là làm đơn đối với chính quyền tại
chỗ để xin phép được hoạt động công khai vì lợi ích chung của xã hội, phù hợp
với các qui định của luật pháp hiện hành. Sau đó, về nghĩa là làm sao giải đáp
được các bế tắc đang xảy ra trong các Nhu Cầu Nhỏ. Khi các Nhu Cầu Nhỏ được
giải đáp, thì các Nhu Cầu Lớn nhất định phải bị chuyển động thay đổi theo.
Nhưng vấn đề khó khăn là làm sao giải đáp được vô số các Nhu Cầu Nhỏ một cách
hiệu quả vượt trội, trong khi các phương tiện thông tin cần thiết đều phần lớn
nằm trong quyền sử dụng của các Nhu Cầu Lớn.
Tuy nhiên, sự quan hệ thông qua cái tâm giữa con người với nhau cũng là một
phương tiện vô cùng quan trọng, vì không ai có thể giành lấy cái tâm của người
khác nếu như người đó biết giữ gìn và được khơi dậy. Vậy, ngôn ngữ A phải tìm
đến khả năng giải đáp mọi Nhu Cầu Nhỏ của con người bằng, trước tiên, từ phương
pháp quan hệ riêng lẽ giữa các “cái tâm” một cách “thủ công” với nhau để tạo
thành các tích lũy lớn dần.
Sự quan hệ dựa trên “Cái Tâm” là một trong các thế mạnh chính của ngôn ngữ A.
Bản chất cách truyền đạt nội dung bằng ngôn ngữ A là đưa con người đến thói quen
nhận thức sự sống từ góc độ toàn diện rộng nhất, rồi mới đến các vấn đề chi
tiết nhất. Khả năng nhìn vấn đề càng rộng bao nhiêu, thì khả năng hiểu và lý
giải được các vấn đề chi tiết càng hiệu quả bấy nhiêu.
Nhưng để có khả năng nhìn vấn đề càng rộng, trong vấn đề quan hệ con người với
nhau, thì đòi hỏi con người phải bỏ công và thời gian nhất định để học tập và
rèn luyện đến cái tâm của tự trong mỗi con người. Điều đó, đối với đại đa số
con người thời đại ngày nay, gần như không còn đủ điều kiện để thực hiện khi mà
con người đang phải ngày đêm chạy đua với các giá trị vật chất, như một thước
đo bắt buộc cho khả năng sống còn của những con người thời đại.
Tuy nhiên, thật ra chúng ta cũng có thể hiểu rằng, sự “thiếu điều kiện” trên
đây chẳng qua là vì con người “chưa muốn” đó thôi. Bởi có khi trong sự sống,
con người có nhu cầu một đàng nhưng thực tế họ đi tìm sự đáp ứng theo một nẽo
khác, để rồi vì sự sống trước mắt mà không biết đã vô tình làm hỏng sự sống
toàn diện và lâu dài của đời họ vậy. Vì thế, con người thời đại hình như luôn
chạy theo những đáp ứng mà thật ra, nó không phải là lời giải đủ cho sự sống
của mỗi đời người. Để rồi, con người có cảm giác như không còn đủ thời gian và
sức lực để dành cho một hướng sống khác, tốt hơn và hiệu quả hơn trong phát
triển. Hay con người chưa muốn chọn nó, chỉ vì nó chưa chính thức nằm trong các
“Nhu Cầu Lớn” do xã hội đặt ra!
Như vậy, con đường thâm nhập qua các Nhu Cầu Nhỏ (Tiểu Lộ) chỉ có thể đạt kết
quả giới hạn và tương đối. Nó chỉ thật sự có hiệu quả cao, khi con đường thâm
nhập qua các Nhu Cầu Lớn (Đại Lộ) được khai thông một cách công khai và hiệu quả.
Do đó, vấn đề đặt ra là, một mặt ngôn ngữ mới phải dùng Tiểu Lộ để thâm nhập
từng bước các nội dung, để lấy đó làm cơ sở tranh đua các nội dung công khai
với ngôn ngữ cũ bằng con đường Đại Lộ. Nếu ở Đại Lộ thành công, thì mọi việc
mới có thể xem như thuận lợi ở Tiểu Lộ.
Vấn đề cần được đặt ra tiếp theo, là nội dung nào cần được chuẩn bị cho Tiểu Lộ
và nội dung nào cần được chuẩn bị cho Đại Lộ.
6. NỘI DUNG THÂM NHẬP BẰNG TIỂU LỘ
Chúng ta biết rằng nhu cầu cuộc sống đời thường của con người rất đa dạng, nhưng
cũng rất cụ thể. Nó cụ thể đến mức, như là một điều kiện sống còn, không thể
thiếu đối với sự sống của mỗi con người.
Bản chất của ngôn ngữ A là nhằm giải quyết triệt để mọi vấn đề có ý nghĩa giá
trị bản chất cho sự sống của mỗi đời người, một cách cụ thể và khoa học, về lý luận
và cả về thực tiễn. Tuy nhiên, ngôn ngữ A ra đời trong điều kiện đời sống vật
chất của xã hội loài người, nói chung, đã phát triển ở mức phồn thịnh. Do đó,
trong thực tế ứng dụng, ngôn ngữ A sẽ thích hợp trước tiên đối với những người
có mức sống vật chất trên cơ bản hay từ cơ bản trở lên. Kế đến, là những người
có ý thức đi tìm một ý nghĩa cuộc sống khác, bên ngoài các ý nghĩa của sự sống
hiện tại mà họ đang có, hay đang cảm nhận về tính hiệu quả chưa cao của nó.
Sau đó, là những người mong muốn đi tìm giá trị cuộc sống bằng tất cả sự chân
thật của mình, để hiểu về cuộc sống, hiểu về mức sống của mọi người xung quanh,
để rồi nhìn thẳng về các ưu, nhược của nội tâm chính mình mà cố định ra một lời
giải tốt nhất cho ý nghĩa và mục đích lý tưởng sống của đời mình.
Và trong số đó, có những người không định ra được lời giải nào, thì đó là những
người dễ cho ngôn ngữ A giới thiệu về một cách suy lý mới.
Nếu cho rằng ngôn ngữ A là một ngôn ngữ ưu việt hơn mọi ngôn ngữ khác, thì người
tìm hiểu về ngôn ngữ A phải có được một mức sống cao hơn mức sống của mọi người
đang có cùng trường hợp, trong các ngôn ngữ khác.
Nếu mục đích của ngôn ngữ A là xây dựng cho con người một mức sống toàn diện;
vậy thì, một mức sống cao phải là một mức sống giàu về vật chất lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, như thế có nghĩa là gì, có nghĩa là mức sống vật chất của mỗi con
người đều có thể sẽ bị ít nhiều chênh lệch và đa dạng khác nhau, nhưng gần
tương tự nhau về mức sống Hạnh Phúc, thông qua sự phát triển về mức sống tinh
thần của mỗi người từ ngôn ngữ A.
Tục ngữ có câu “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, có nghĩa là nếu không khéo,
thì dù có nhiều cũng có thể vẫn không đủ và lòng vẫn không thấy ấm. Cái “KHÉO”
đó chính là nhờ mức sống giá trị tinh thần của mỗi con người, đã qua quá trình
rèn luyện để tạo nên khả năng giữ mức sống luôn được cân đối và “ấm no” đến
Hạnh Phúc toàn diện, tùy theo khả năng của mỗi người và tùy theo sự phát triển
của môi trường sống.
Do đó, ngôn ngữ A là thứ ngôn ngữ nhằm đào tạo và xây dựng mức sống tinh thần
cho mỗi con người. Từ mức sống tinh thần có được, con người sẽ quay sang biết
cách chia sẻ mức sống vật chất cho nhau một cách công bằng và hợp lý nhất, bằng
một sự giác ngộ tốt nhất. Điều đó không khác gì một sự thúc đẩy qui luật phát
triển chung, tiến lên một cách tích cực nhất.
Xây dựng mức sống tinh thần cho con người cũng tức là xây dựng cái tâm của mỗi
con người, hay đó cũng là hướng giải thoát cho sự định hướng phát triển hoàn
chỉnh nhất của mỗi đời người, khi con người lấy góc nhìn sự sống từ ngôn ngữ A.
Như vậy, chúng ta còn có thể nói, tất cả những ai còn cảm thấy chưa bằng lòng
với mọi lý giải đang có về cuộc sống và xã hội, thì đều có thể tìm đến ngôn ngữ
A như một sự chào hàng mới, về một hướng giải thoát mới, khoa học hơn, toàn
diện hơn và hiệu quả hơn cho sự sống của con người và xã hội.
Trong hướng giải thoát mới đó, con người sẽ được giới thiệu một số cách giải
quyết thực tế về các bế tắc đang xảy ra trực tiếp trong cuộc sống hằng ngày của
mỗi con người; để qua đó, mỗi con người có thể hình dung, làm quen và cũng như
để xây dựng niềm tin ban đầu về ngôn ngữ A. Và từ đó, nó có thể giúp con người
bắt nhịp cầu đi vào thế giới của ngôn ngữ A.
Về cách giải quyết các vấn đề bế tắc đang thường xảy ra trong sự sống đời
thường, trong các quan hệ giữa con người với nhau, chúng ta thấy rằng: trong
các mâu thuẫn về quan hệ thì mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế là chiếm đa số, vì
mỗi bên không ai muốn dễ dàng nhường nhịn. Do đó, yêu cầu là phải tìm cách lý giải
sự phân chia các quyền lợi đó ra sao cho được công bằng và hợp lý nhất.
Để có sự hợp lý hóa cho vấn đề, con người phải bắt đầu từ sự khởi nguyên của
vấn đề mà phân định rạch ròi ra sự phải trái. Khi tìm thấy được nguyên nhân
khởi điểm thì: một là, nếu chịu công nhận nó thì vấn đề xem như đã giải được;
hai là, nếu con người không công nhận đó là nguyên khởi điểm thật, thì vấn đề
sẽ trở nên nan giải.
Trong lý của ngôn ngữ B, trước mỗi nan giải thì phần thắng sẽ thuộc về ai có
quyền lực áp đặt bằng bạo lực mạnh hơn đối phương. Trong lý của ngôn ngữ A, thì
lấy quyền lực của “bản chất Người” để chiến thắng mọi quyền lực khác, mỗi khi
vấp phải những nan giải trong quan hệ con người với nhau.
Quyền lực của “bản chất Người” được hiểu nôm na là quyền của lẽ phải công khai,
mà điểm tựa căn bản của nó là nằm trong cái tâm của mọi con người. Mà cái tâm
con người là do thói quen sống của mỗi con người tạo thành. Nhưng thói quen
sống của mọi người là vô cùng đa dạng, nên tâm người cũng đa dạng theo, nên
quyền lực của “bản chất Người” cũng đa dạng và gặp bế tắc theo?
Bấy giờ ngôn ngữ A sẽ đưa ra lời giải: mọi tâm nguyên thủy của con người đều có
bản chất giống nhau, nhưng do con người thiếu chủ động tạo một môi trường thói
quen sống có lợi cho sự phát huy tính trùng khớp của chúng, nên chúng sinh ra
không ngừng tự phát mâu thuẩn đối kháng với nhau.
Để thực hiện được sự điều chỉnh trên, thì đó cũng là mục tiêu cơ bản mà ngôn
ngữ A đang theo đuổi suốt trong quá trình tự giới thiệu của mình. Đó là một
chuổi dài các qui ước về cách xây dựng các thói quen cần thiết trong nhận thức
của mỗi con người. Như chúng ta đã biết, điều đó tương đương với sự đòi hỏi về
một quá trình học tập và rèn luyện của mỗi người, thông qua hai con đường Phức
12 hoặc Đơn 13, đã được giới thiệu ở các nội dung đầu của tác phẩm này.
Vậy, trong khi con người còn chưa chấp nhận các qui ước trên, thì cơ sở đâu để
giải quyết các mâu thuẩn tại chỗ?
Và sự thật, đúng là khi con người đang còn dùng cách sống khác với cách của môi
trường ngôn ngữ A, thì nhất định sẽ có lúc vấp phải những mâu thuẩn không có
lời giải tốt, mà chỉ có sự trả giá bằng những mất mát, bạo lực, bất công và đau
khổ, v. v... thì mới mong tìm ra lối thoát cho nhất thời.
Song sự thật là, cũng có khi đa số các mâu thuẩn xảy ra trong môi trường của
ngôn ngữ B, nhưng vẫn có thể dùng các lời giải của ngôn ngữ A để lý giải một
cách tốt đẹp. Điều này ắt đòi hỏi phải có một người trong cuộc dám vượt qua mọi
khó khăn, để dũng cảm sống và Hành Động theo chính tiếng nói của lương tâm
riêng mình, với sự giúp sức gợi ý của ngôn ngữ A, thì cánh cửa thoát mới có khả
năng được mở ra.
Và chúng ta cũng biết rằng, những cách giải quyết như vậy cũng chỉ có giá trị
trong nhất thời hay sự vụ, còn về lâu dài thì chỉ có thể bằng con đường gia
nhập ngôn ngữ A một cách qui cũ, để từng bước tạo ra một môi trường sống tốt
hơn, có khả năng lý giải mọi vấn đề một cách toàn diện hơn.
Trong đa số các mâu thuẩn trên, thì thường có tính tranh chấp về các quyền lợi
nhỏ, thứ yếu, mà vì sự chủ quan của mỗi bên đã trở thành khó tìm ra sự lý giải
hợp lý cho nhau. Khi đó ngôn ngữ A, với tư cách là một quan điểm khách quan
hơn, sẽ vạch ra đúng nguyên nhân phần phải thuộc bên nào, thì vấn đề sẽ mau
được giải quyết. Và thông thường, trong cuộc sống ngày nay, những vấn đề mâu
thuẩn cắc cớ như vậy không phải là ít, để rồi gây cho con người những sự phiền
toái không đáng có.
7. CÁC BÀI HỌC CƠ BẢN TRONG TIỂU LỘ
Như vậy, vấn đề cơ bản và lâu dài cho vấn đề giải quyết tận gốc rễ mọi mâu thuẩn
lớn, nhỏ trong quan hệ đời sống giữa con người với nhau, phải chăng chỉ có thể
là sự tập làm quen dần với ngôn ngữ A một cách bài bản, lớp lang và qui cũ của
mọi người trong cộng đồng.
Trước hết, con người cần được tìm hiểu về mục đích sống của một đời người, để
từ cơ sở mục đích đó sẽ giúp cho con người hiểu ra giá trị của ý nghĩa đời
người trong Môi Trường Sống Bình Thường là sao.
Biết được mục đích sống rồi, con người cần phải được tìm hiểu tiếp theo, bản
chất của cái chủ thể sẽ phải đạt đến mục đích đó là gì, nó là ai, nó đang như
thế nào, v. v...
Và hành trang lớn nhất của mỗi đời người là khả năng tư duy suy nghĩ trong cách
giải quyết hay cách nhìn về các vấn đề đang xảy ra xung quanh họ, mà trong đó
vấn đề khó nhất là sự quan hệ giữa con người với nhau. Trong mối quan hệ giữa
con người với nhau đó, thì mối quan hệ giữa mỗi người với nội tâm mình là yếu
tố mang tính quyết định cho sự hình thành khả năng nhìn ra, đâu là ý nghĩa thật
của mỗi giá trị sự sống đời người.
Cách suy nghĩ tốt nhất của con người là phân chia thế giới tồn tại thành hai
cực Âm và Dương, hay Không và Có, hay Tinh Thần và Vật Chất. Trong đó, các quan
hệ giữa con người với nhau là thuộc về phạm trù tinh thần, và các quan hệ còn
lại là thuộc về phạm trù vật chất.
Do đặc tính thói quen của não người, mà tương xứng với mỗi phạm trù là một cái
tâm của nội dung vận động tư duy của não người. Mỗi tâm đó, chúng ta đặt tên là
tâm A hay tâm tinh thần, và tâm B là tâm vật chất. Trong hai tâm thì tâm A có
một đặc điểm đặc biệt cơ bản, là nó tồn tại bên ngoài khả năng ý thức trực tiếp
của mỗi con người. Con người chỉ có thể nhận biết được nó, đơn giản chỉ thông
qua sự tưởng tượng mà định dạng tồn tại cho nó.
Trong sự tương quan của hai tâm trên, thì tâm A có tính quyết định hơn mỗi khi
xét vấn đề ở phạm vi toàn diện nhất. Do bản chất của mọi vận động đều chiếu về
tâm và chịu sự điều khiển của tâm A một cách vô thức hay có ý thức, nên yêu cầu
làm chủ cái tâm A của con người, sẽ là một điều kiện mang tính quan trọng số
một trong đời sống mỗi con người trong môi trường chi phối của ngôn ngữ A.
Để làm chủ tâm A (hay A) thì con người thông qua tâm B (hay B) để tác động, vì
giữa chúng có sự tương quan vận động thống nhất với nhau.
Tâm B là toàn bộ các vận động có ý thức, mà mỗi người có thể nhận biết và trực
tiếp chủ động điều khiển được chúng. Vậy yếu tố quyết định để con người có thể
làm chủ được A, là phải tạo điều kiện cho mọi sự vận động của B đều đem lại lợi
ích cho A, hay đem lại lợi ích cho sự hình thành các giá trị Hạnh Phúc của mỗi
đời người nói chung.
Nếu chúng ta gọi mọi vận động của B có lợi cho A là (hp), thì mọi vận động của
B không có lợi cho A là (khp).
Vậy là, khi (hp) ngày càng nhiều dần, thì con người sẽ càng có ý thức quý trọng
các mối quan hệ tích cực giữa con người với nhau hơn, hơn là các quan hệ giữa
con người với các vật chất khác.
Nếu ngôn ngữ A giả thiết rằng bản chất của A là (hp), thì khi B cung cấp (hp)
cho A phù hợp với bản chất tồn tại của nó, thì cũng đồng nghĩa rằng A phải cảm
thấy sự sống “bằng lòng” hơn; và giả thiết xem như đã được kiểm chứng. Điều đó
có nghĩa là con người đã có đủ ý thức để chủ động được sự tồn tại của A.
Như thế, vấn đề đến đây là tùy vào sự kinh nghiệm nhận thức sống của mỗi người,
mà nhận xét về giả thiết trên của ngôn ngữ A có đúng hay không. Ví dụ nôm na
là, khi con người làm điều thiện với mọi người, thì lương tâm sẽ cảm thấy nhẹ
nhàng, yên ổn và tốt hơn, v. v..., đó là một giả thiết. Nếu con người cho đó là
một giả thiết đúng, thì chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem, cụ thể các (hp) do B
cung cấp cho A sẽ là những gì?
Tuy nhiên, ngôn ngữ A còn chứng minh rằng, khi con người có được sự nhận thức
về A, thì vấn đề chọn A làm trọng tâm trong nhận thức và Hành Động của con
người, sẽ thành tất yếu chứ không còn là sự muốn hay không muốn của con người
nữa. Bởi A sẽ đem lại năng suất sống Hạnh Phúc cho con người cao hơn là khi con
người chọn B làm trọng tâm.
Để cụ thể hóa các (hp) do B cung cấp cho A là gì, chúng ta cần phải phân chia
cộng đồng con người ra thành nhiều hạng tuổi và mỗi hạng tuổi, hay nhóm tuổi, lại
phải chia thành các khuynh hướng khác nhau về tính cách, về năng lực sống, về
nghề nghiệp, v.v...
Tuy nhiên, nhìn chung, mỗi (hp) trước tiên phải là không dùng đến bạo lực trong
quan hệ con người với nhau mà phải dùng lý lẽ của sự phải trái, trong sự cố
gắng duy trì các mối quan hệ được ôn hòa và tôn trọng lẫn nhau, trước mọi vấn
đề cần được giải quyết trong công bằng và hợp lý nhất của cuộc sống.
Muốn được như vậy, con người cần phải được giới thiệu để tìm hiểu về bản chất
của qui luật vận động sinh tồn của con người là gì. Trong đó, các vấn đề về bản
chất con người và việc xác định đâu là động cơ mang tính phương tiện và đâu là
động cơ mang tính cứu cánh chính của đời người, sẽ là những trọng tâm nền tảng
cho sự phát họa về ngôn ngữ A.
Trong quá trình phát họa đó, dần dần con người sẽ nhận ra rằng, sức mạnh quyền
lực lớn nhất trong quan hệ con người hiện nó đang nằm tại đâu. Biết được sức mạnh
vô địch đó, mỗi người sẽ biết cách lợi dụng nó một cách tốt nhất; để rồi, đó
cũng đồng thời là lúc mà mỗi con người mới cảm thấy được mọi sức mạnh quan hệ
bạo lực giữa con người với nhau, chỉ là một sự biểu hiện về tính yếu kém trong
năng lực sống Hạnh Phúc của con người thời đại mà thôi.
Khi mỗi Hành Động của con người đều nhằm có ý thức tránh gây ra bạo lực và mang
lại lợi ích chung, thì cũng đồng nghĩa khi đó, mỗi Hành Động là tương đương với
sự hình thành ra một (hp) cho A vậy.
Khi Hành Động không còn mang tính bạo lực, thì sự quan hệ con người với nhau sẽ
không còn mang tính nguy hiểm và thù địch với nhau nữa. Khi các quan hệ không
còn mang mầm nguy cơ đối đầu với nhau nữa, thì một bản năng được quan hệ hòa
bình và thân thiện giữa con người với nhau, sẽ có dịp được phục hồi và phát
triển mạnh mẽ.
Nếu khi các Hành Động quan hệ không còn mang tính hại nhau, thì nó sẽ mau chóng
trở thành ngày càng giúp nhau một cách nhiệt tình, tích cực và hiệu quả hơn.
Sự quan hệ tốt đẹp trên có thật sự bền vững hay không, là do kết quả nhận thức
của con người về ngôn ngữ A; nó sẽ xây dựng cho con người niềm tin về một Hạnh
Phúc có bản chất tinh thần, hay là thuộc về bản chất của vật chất.
Nếu con người nhận ra được Hạnh Phúc đời người có bản chất là tinh thần, thì
con người sẽ hiểu ra rằng đích đến vĩnh cửu của mỗi đời người sẽ mãi mãi là cái
A của hư vô. Biết rằng, do bản chất phát triển của cái A hư vô là tùy vào các
khái niệm chân, thiện, mỹ theo nghĩa toàn diện và hoàn thiện nhất, mà mỗi người
có thể thực hiện được nhiều nhất và tốt nhất trong đời; nên nó bắt con người
phải dần dần tránh xa cái ác để hòa nhập mãi mãi vào cái thiện, nó vừa có lợi
cho bản thân người đó và cũng vừa có lợi cho mọi con người trong cộng đồng.
Tóm lại, nội dung của ngôn ngữ A chỉ là khuyên con người nên làm điều thiện và
tránh điều ác, như một tập quán sẵn có từ lâu đời về các lời khuyên tốt đẹp, mà
con người trong mọi thời đại đều muốn chúc tụng và chỉ vẽ cho nhau. Nhưng nó
chỉ khác hơn một chút, là bên này có sự chứng minh và vạch đường một cách có hệ
thống, có cơ sở khoa học và có tổ chức thực hành hiệu quả; còn bên kia thì gần
như không có tất cả, nên kết quả đạt được như một sự cầu may, được thì nhờ, còn
hư thì phải đành chịu khổ...
Để lời khuyên cho nhau được hiệu quả, thì chúng ta cần dựa vào sự sống đa dạng
của con người mà định ra các nội dung khuyên răn từ mức phổ thông đến chuyên
sâu dần, cho phù hợp với các yêu cầu của mỗi con người trước môi trường sống.
Lời khuyên hữu ích và phổ thông nhất trong quan hệ nhiệt tình giữa con người
với nhau, trước hết phải là sự giúp đỡ nhau để có được một môi trường sống vật
chất được cơ bản và ổn định, đủ để con người an tâm tạo đà phát triển hơn nữa
về tinh thần lẫn vật chất trong mức sống.
Nếu trước mắt chưa thể giúp nhau có được mức sống cơ bản về vật chất và tinh
thần cho nhiều người, thì mỗi người tùy theo khả năng của mình mà giúp nhau một
cách hợp lý về nghề nghiệp, kinh doanh, mua bán, sản xuất, v. v..., hay về niềm
tin trong chất lượng hàng hóa, về giá cả thị trường, về niềm tin bạn hàng, về
khả năng giúp nhau vốn liếng, về kinh nghiệm thương trường, về công sức lao
động, hay giúp nhau về các dịch vụ sửa chữa, trông nom, chăm sóc các việc linh
tinh đời thường khác, v.v...
Hay con người còn có thể nghĩ ra vô số các lợi ích đa dạng và cụ thể khác, mà
mọi người đều có thể giúp nâng cao được mức sống trực tiếp cho nhau, miễn là
tất cả đều đã được giao ước theo một thỏa thuận từ trước nào đó về vật chất hay
cả về tinh thần giữa hai bên.
Mỗi sự giúp đỡ nhau hay mỗi Hành Động mang một ý nghĩa tích cực và tốt đẹp như vậy,
đều sẽ tương đương với một viên gạch (hp) trong lâu đài A (hp), mà mỗi người sẽ
phải bền chí bỏ công ra để xây dựng nên nó. Hay nó cũng tương đương như một lời
khuyên chân thiện giữa mọi người với nhau, mà trước mắt nó sẽ đem lợi (hp) cụ
thể và trực tiếp cho người đã đưa ra lời khuyên hữu ích đó.
Nếu người lớn cần sự giúp nhau ở phạm vi người lớn, thì trẻ thơ cũng cần được
tập làm quen dần với ý thức biết cách quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau.
Nếu điều trên có ý nghĩa quan trọng một đối với người lớn, thì đối với trẻ thơ
càng quan trọng gấp nhiều lần hơn, vì điều đó chính là sự đầu tư hướng về tương
lai.
Ngày nay, phải chăng người lớn hay các giáo viên thường chỉ máy móc lo trách nhiệm
của mình trong phạm vi tầm mắt hay trong các giờ lên lớp vàng ngọc, mà quên để
ý xem ngoài các giờ trên, trẻ thơ đã sống và quan hệ sinh hoạt như thế nào.
Phải chăng, đó là một kẻ hở quan trọng, đã nuôi mầm phản giáo dục ngay từ trong
chính các nhận thức về trách nhiệm của người lớn đối với trẻ thơ. Một sự kém
trách nhiệm hôm nay, chắc chắn sẽ phải bị đổi lấy một thế hệ nhân cách tồi
trong tương lai?
Một đứa trẻ có thể học rất giỏi và rất ngoan trong lớp học, nhưng trẻ vẫn có
thể là kẻ quen hiếp đáp, giành giật, bạo ngược, hổn láo, v.v... với bạn bè yếu kém
hơn hay cả đối với người lớn, khi trẻ đang sinh hoạt ngoài tầm nhìn của những
người có trách nhiệm trực tiếp với trẻ.
Có người xem đó là chuyện nhỏ, ngôn ngữ A xem đó là chuyện lớn và quản trọng,
không thể để sai phạm. Bởi như đã chứng minh, một cái sai quá sớm từ hôm nay sẽ
có thể là một thói quen khó lường trong tương lai, khi mà con người còn chưa
làm chủ được môi trường phát triển ngoài xã hội.
Thực tế đã chứng minh, cái dở trên của trẻ sẽ được nhanh chóng và dễ dàng khắc phục,
nếu những người lớn kia có điều kiện suy nghĩ, để tâm giúp trẻ khắc phục. Hơn
nữa, từ ngôn ngữ A cho thấy, mọi sự vận động phong phú của con người, để rồi
cuối cùng kết quả đánh giá sẽ tùy vào sự phát triển khả năng của con người
trong cách quan hệ giữa con người với nhau. Do đó, hiện tượng trẻ phạm sai lầm
trong quan hệ con người với nhau, do thiếu ý thức hay do thiếu được chỉ bảo ân
cần, đã ngẫu nhiên chỉ ra thế nào là sự yếu kém về trình độ sống của những
người lớn, hay của những người đang chịu trách nhiệm trực tiếp dạy bảo đối với
các trẻ đó.
Sau các lời khuyên về các nhu cầu vật chất, hay còn gọi là các Hành Động hữu
ích mang tính vật chất, là các Hành Động hữu ích mang tính tinh thần hay các lời
khuyên về các nhu cầu tinh thần.
Thông thường khi con người quan hệ tích cực với nhau chỉ bằng các giá trị vật
chất, thì các quan hệ đó sớm muộn cũng trở thành tiêu cực. Vì vậy, bên cạnh sự
quan hệ tích cực về vật chất, thì con người phải đi liền theo đó là các quan hệ
tích cực về tinh thần. Các quan hệ tinh thần có nhiệm vụ lý giải một cách hợp
lý, để nhằm duy trì tính lâu dài cho các quan hệ vật chất tích cực trên.
Khi chúng ta thực hiện một Hành Động, thì cần phải có sự lý giải về tính phải
hay trái của nó. Sự lý giải đó được qui về các giá trị tinh thần.
Nếu một nhà giáo đã không hoàn thành trách nhiệm đối với học sinh, nhưng không
được ai góp ý hay lý giải như thế là sai lầm, thì hiện tượng trên sẽ khó có thể
gọi đó là một tội lỗi để yêu cầu được sửa chữa.
Vậy, để có thể tạo ra một sự thay đổi sâu sắc một cách tích cực trong vấn đề
quan hệ con người với nhau, là con người phải chỉ ra một cách chính thức, công
khai và cụ thể, như thế nào là một sai lầm và tội lỗi trong quan hệ con người
với nhau. Sự chỉ ra cụ thể đó phải đạt đến mức chi tiết nhất nếu có thể, sau
khi về lý thuyết cơ bản chung đã được minh chứng và giới thiệu một cách hợp
tình, hợp lý và khoa học.
Người ta nói, có những điều không cần nói với nhau nhưng vẫn phải ngầm hiểu để
thực hiện cho đúng. Điều đó trong ngôn ngữ A là không đúng. Khi nào, vấn đề gì,
còn ở mức ngầm hiểu và ý thức được, thì đều cần phải được xác định công khai
hóa ra, khi cần thiết để mọi sự phải hay trái không còn bị ngộ nhận hay lạm
dụng dưới nhiều hình thức, cố ý hay không cố ý.
Tuy nhiên, sự cụ thể hóa một cách chi tiết như trên, sẽ phải đòi hỏi rất nhiều
về trình độ sống của con người nói chung.
Một lời góp ý phải, trái trong quan hệ con người với nhau, sẽ ít hay nhiều liên
quan đến kinh nghiệm sống của mỗi người, tức là đòi hỏi con người phải có ít
nhiều sự trưởng thành về nhận thức. Ở đây, chúng ta gọi đó là trình độ về ngôn
ngữ A hay Trình Độ sống của mỗi con người.
Trong giai đoạn đầu, khi mà con người còn xa lạ với ngôn ngữ A, thì mỗi người vẫn
có thể dựa vào cái tâm chân thành của mình mà góp ý với nhau cho minh bạch vấn
đề, thì hiệu quả đạt được sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển vì ích lợi
chung.
Ví dụ, thấy người bị thất cơ lỡ vận, thì tùy theo sự tìm hiểu hoàn cảnh mà mỗi
người, của ít lòng nhiều, cùng gom góp với nhau để giúp người khó sớm phục hồi.
Một lý như vậy sẽ không thiếu người có khả năng làm đại diện, để biến ý tưởng
trên thành hiện thực.
Ngoài ra, còn có nhiều Hành Động sai trái khác, khi ai đó có yêu cầu được mổ
xẻ, phân tích, và khi được mọi người góp ý, thì đa số vấn đề sẽ đạt được thành
công. Vấn đề chỉ là, do lâu nay không có dịp để cùng hội lại mà bàn cho đến nơi
đến chốn, theo một quan điểm cởi mở hay như theo cách của ngôn ngữ A; nên việc
cứ tồn ách lại và dễ sinh nguy hiểm.
Ngoài các vấn đề thông thường trên ra, con người sẽ từng bước gặp trở ngại về
các khái niệm phép tắc, lễ nghi phân cấp trên dưới trong quan hệ, trong phân
chia quyền hạn, uy quyền, v. v.... Đây là những vấn đề cần được lý giải theo
chuyên đề dưới góc độ của ngôn ngữ A, thì hi vọng sẽ có nhiều biến đổi tiện lợi
và thiết thực hơn trong đời sống cộng đồng.
Hay các vấn đề về thói quen nhận thức sai, đúng trong các phong tục tập quán đa
dạng, hay trong các hoạt động tự phát khác ngoài xã hội, v.v... cũng đều là
những chuyên đề cần được lý giải cụ thể, theo góc độ của ngôn ngữ A.
Nhìn chung, các vấn đề trên đều đã được lý giải khái quát trong các phần nội
dung của tác phẩm này. Do đó, những ai có công đọc qua trước, sẽ có thể phát
họa phần nào những lý giải về các chuyên đề trên để giúp mọi người cùng tham
khảo.
Hay các vấn đề trên được lý giải trên nguyên tắc, điều gì có lợi được mọi người
ưng thuận thì được gọi là phải, mọi người cùng thực hiện. Nhưng điều gì đó có người
muốn, có người không, thì không ai có quyền bắt buộc ai, mà cần cùng nhau thỏa
thuận một ranh giới không vi phạm lên quyền lợi riêng tư của nhau. Còn sai hay
đúng như thế nào nữa, thì tổ chức của mỗi “ngôn ngữ”, phải có trách nhiệm lý
giải công khai bằng một giải đáp cụ thể và hợp lý nào đó, để cho mọi người dễ
tham khảo và kết luận bình chọn bằng sự ưng thuận tuyệt đối của tất cả mọi
người.
Tiếp theo sau các vấn đề mâu thuẩn trên là con người đi tìm sự lý giải các mâu
thuẩn trong chính nội tâm của mỗi người. Đây cũng là vấn đề có thể đưa ra công
khai để mọi người cùng góp ý lý giải, hoặc nó được lý giải theo chuyên đề dưới hình
thức chung hay riêng cá nhân.
Hay đó cũng là vấn đề liên quan đến nội dung cuối cùng, là hãy để mọi người
cùng trao đổi, hội ý với nhau về định nghĩa: thế nào là một sự sống đời người trong
Môi Trường Sống Bình Thường (hòa bình).
Đến đây sẽ đòi hỏi mỗi người cần phải có một sự đầu tư nhất định về công sức và
thời gian, để tìm hiểu về ngôn ngữ A một cách có hệ thống và bài bản hơn, nhằm
có đủ cơ sở lý giải các vấn đề khó khăn và phức tạp hơn của cuộc sống.
Các nội dung bài bản này sẽ được giới thiệu từng bước trong quá trình giới
thiệu và phát triển về ngôn ngữ A. Hay chúng sẽ như thế nào, là tùy vào yêu cầu
thực tế của từng hoàn cảnh mà định ra các nội dung thông tin để có sự rèn luyện
thích hợp.
Nếu các nội dung trên thuộc về Đơn 13, thì có thể được phát triển theo các bước
chính như sau: một là, đáp ứng các nhu cầu vật chất và chứng minh tính chu kỳ
lập đi lập lại của nó, để đi đến chứng minh sự giới hạn ý nghĩa của nó; hai là,
làm quen dần với khả năng hưởng thụ sự sống bằng sự phân định phải trái công
bằng trong quan hệ con người với nhau; ba là, xác định một nghề nghiệp vật chất
chuyên môn ổn định, làm điểm tựa cho một sự cảm hứng Hạnh Phúc được thăng hoa
đến vô hạn; bốn là, từ sự thăng hoa đó biến nó thành điểm tựa mới, để xây dựng
một hệ quan điểm sống mới chủ động và hiệu quả trước mọi hoàn cảnh của môi
trường sống.
Nếu các nội dung trên thuộc về Phức 12, thì có thể được phát triển theo các
bước như sau: một là, xác định giá trị sự sống của con người sẽ lệ thuộc chính
vào các kết quả rèn luyện nhận thức của bản thân mỗi người; hai là, qui tất cả
hiện tượng vận động của thế giới tồn tại thành dưới dạng nhận thức có qui luật,
trong đó có bản thân sự vận động não của mỗi con người; ba là, từng bước chủ
động đưa sự vận động não của mỗi người vào quĩ đạo của qui luật thói quen, tất
cả phát triển lên từ cái O một cách lô-gíc chặt chẽ, trên nguyên tắc tác động của
qui luật QBAD. Đó cũng là lúc con người phải trải qua giai đoạn, điều chỉnh từ cái
tâm nhận thức đến cái tâm cảm xúc của mình sao cho nó quay về với cái O nguyên
thủy; bốn là, từ điểm tựa O và điểm tựa thói quen lô-gíc hóa các qui luật vận
động đa dạng của não, mà hình thành dần một hệ thói quen phản ứng mới đối với
các thực tế đa dạng của cuộc sống trước mắt; năm là, từ sự rèn luyện một cách
thuần thục các phản ứng trên bằng ý thức, chuyển sang từng bước duy trì chúng
tồn tại dưới dạng vô thức, để sao cho lúc bấy giờ có thể hướng năng lực ý thức
có sẵn của mỗi người, vào cái O đang tồn tại thường trực trong cuộc sống. Điều
đó có nghĩa, con người đã đạt đến đích của sự hưởng thụ vô hạn và vô hình, trên
cơ sở của sự vận động vô hạn của thế giới tồn tại đang xảy ra xung quanh sự
sống của mỗi con người.
Trên đây, chúng ta đã giới thiệu một số điểm chính, mà ngôn ngữ A sẽ áp dụng để
tìm cách thâm nhập vào ngôn ngữ B, bằng ngã Tiểu Lộ.
8. CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA TIỂU LỘ
Trước hết phải là những nội dung giới thiệu đơn giản, dễ hiểu, dễ cảm thông và
đem lại lợi ích thiết thực cho những đối tượng có điều kiện nhất. Thuyết trình,
báo cáo, thông tin truyền miệng, v. v... là những hình thức phổ biến trong các
hoạt động của Tiểu Lộ.
Mục đích của ngôn ngữ A là đem lại hiệu quả cho sự sống con người trên nguyên
tắc, mỗi người phải có toàn quyền trên chính cuộc sống của mình. Nhưng nếu vì
sự toàn quyền đó, mà trở thành gây trở ngại đến quyền sống của người khác một cách
bất bình đẳng, thì vấn đề ắt phải được giải quyết bằng sự xóa bỏ sự vô lý phản
qui luật tiến hóa đó.
Để thực hiện được mục đích đó, mọi người cần được thông tin như thế nào là vi
phạm, và như thế nào là không vi phạm đến quyền sống bình đẳng của người khác.
Nội dung thông tin phản hồi chính xác nhất, là từ những nạn nhân bị xâm phạm
quyền sống cơ bản đó.
Tuy nhiên, nếu vì lý do lịch sử như thế nào đó mà sẽ có người cho rằng, sự bị
xâm phạm quyền sống cơ bản nào đó là một hiện tượng bình thường của tạo hóa,
hay có thể nói, đó là sự không xâm phạm đến quyền sống cơ bản của họ. Chính vì
vậy, có những thông tin được phát ra từ nạn nhân vẫn bị xem là sai sự thật.
Nhưng nếu xét phạm vi toàn xã hội, khi mà sự sống con người còn có sự hận thù,
sự đau khổ, v.v... do bắt nguồn từ các quan hệ mâu thuẩn giữa con người với
nhau; thì điều đó đã nói lên, thực tế trong cuộc sống con người ngày nay nói chung,
là còn có sự xâm phạm quyền sống của nhau một cách bất công.
Muốn xóa bỏ các quan hệ bất công đó, một là con người phải biết xây dựng và bảo
vệ các nguồn thông tin được trung thực; hai là phải biết vạch ra sự ngộ nhận và
phủ nhận các nguồn thông tin sai lệch không đúng với sự thật tự nhiên so với
qui luật phát triển chung.
Nhưng bằng cách nào để có thể xác định giá trị của một thông tin? Từ lâu con
người đã hình thành tự phát một kiểu thói quen truyền thống và phổ biến, ai có
quyền nhất thì nguồn thông tin của người đó thường là có giá trị nhất. Tuy
nhiên, như ngôn ngữ A đã chứng minh, tạo hóa đã tồn tại trước khi xuất hiện các
khái niệm về “quyền lực của con người”. Do đó, chỉ có nguồn thông tin nào mang
tính tạo hóa nhất, thì đó sẽ là nguồn thông tin mang tính chân lý đúng đắn
nhất.
Sự khác nhau giữa hai nguồn thông tin “nhân tạo” và “thiên tạo” là: tuy cả hai
cũng đều thông qua sự nhận thức của con người mà diễn đạt ra, nhưng bên này cần
phải có sức mạnh bạo lực giữa con người với nhau để làm tiền đề áp đặt thông
tin, còn bên kia thì chỉ thông qua sự thật đúng đắn để đánh thức sự giác ngộ tự
giác tiếp nhận thông tin trong mỗi con người.
Do bản chất của một thông tin đúng sự thật, là phải luôn là một phần trong hệ
thống thông tin toàn diện và thống nhất; nên yêu cầu phải tổ chức hóa các nội
dung thông tin lại thành một hệ thống nhất, là một điều kiện bắt buộc và tiên
quyết của dạng thông tin thiên tạo.
Vậy, nếu điều kiện tiên quyết của thông tin nhân tạo là sự tập trung uy quyền
và bạo lực, thì điều kiện tiên quyết của thông tin thiên tạo, là tổ chức mọi
con người lại thành một tập hợp thống nhất, để chủ động thu và phát thông tin.
Vì thế, nhiệm vụ hàng đầu của các hoạt động Tiểu Lộ, là tổ chức hóa mọi con
người lại thành một hệ hoạt động hữu cơ thống nhất với nhau.
Để hình thành các đơn vị tổ chức cơ bản trong ngôn ngữ A, vấn đề chỉ là gợi ý
cho những ai có cùng sở thích, cùng hợp ý, cùng có chung nguyện vọng, nghề
nghiệp, lợi ích, v.v..., thì cùng hợp lại với nhau để lập thành các đơn vị cơ
bản nhằm có điều kiện chuẩn hóa các thông tin với nhau.
Thông thường các tổ chức như vậy đang có sẵn vô số ngoài xã hội, như các gia
đình, các nhóm bạn, các hội sản xuất kinh doanh, các đoàn thể, v.v... Như vậy,
chỉ cần các đơn vị sẵn có ấy, sẵn lòng định hướng các hoạt động phát triển theo
ngôn ngữ A, là xem như một hệ mô hình tổ chức kiểu mới được nhanh chóng thành
lập.
Song song đó, sẽ có những người chưa sẵn có một tổ chức cụ thể hay có nguyện
vọng tách ra tổ chức cũ, hay chỉ xem nó là phụ để được tham gia vào một tổ chức
mới của ngôn ngữ A cho được lợi hơn, v.v..., thì vấn đề sẽ được giới thiệu để
ráp nối với nhau thành các đơn vị tổ chức mới một cách hợp lý.
Cuối cùng, cũng có thể sẽ có những con người không thể hòa nhập hiệu quả vào
một đơn vị tổ chức nào, thì khi đó mỗi cá nhân đó sẽ là một đơn vị tổ chức độc
lập cơ bản vậy.
Nếu nói bản chất của con người thời đại văn minh là phải sống dựa vào một tổ
chức cộng đồng nhất định, để trao đổi các nhu cầu sinh tồn với nhau, thì sự
trao đổi đó nhất định phải thông qua một quan hệ nhất định. Nếu bây giờ ngôn
ngữ A giữ một đầu trong mối quan hệ đó để tạo một quan hệ tốt cho đối tượng,
thì phải chăng đối tượng đó sẽ có một quan hệ đáp lại nào đó để nhằm duy trì sự
quan hệ hữu ích trên. Vậy cũng là một khái niệm tổ chức được hình thành, tuy nó
thuộc dạng có vẻ tự do hơn.
Tuy nhiên vấn đề chưa tính đến, khi con người được tạo một Môi Trường Sống Bình
Thường tích cực, thì nhu cầu quan hệ tốt giữa con người với nhau, sẽ trở thành
như một nhu cầu thứ hai sau bản năng sinh tồn của mỗi con người. Một quan hệ
tốt có lợi cho sự sống con người, đối với ngôn ngữ A, cũng có nghĩa như một môi
trường tổ chức đã được xác lập.
Từ các nội dung trên cho thấy rằng, trong ngôn ngữ A, con người có dư điều kiện
để tự tổ chức hóa lại thành một hệ tổ chức thống nhất, để giúp nhau bảo vệ các
giá trị sinh tồn tốt đẹp một cách hiệu quả nhất, cho sự sống con người và xã
hội.
Tất cả vấn đề đều nằm trong nguyên tắc: tổ chức được hình thành ra nhằm có lợi
cho con người hơn hay là chỉ đem lại sự phiền toái nhiều hơn cho con người? Hay
tổ chức là cửa để cho “tự do hơn” hay làm “giảm sự tự do hơn” đối với sự sống
của mỗi con người.
Vì thế, điều kiện tham gia hay từ bỏ tổ chức ngôn ngữ A, cũng đều đơn giản
ngang nhau; miễn sao, mọi người cảm thấy có lợi nhất trong sự chọn lựa của mình.
Đó cũng là điều kiện tốt nhất để có thể hình thành một tổ chức tốt nhất.
Khi một cơ cấu tổ chức được hình thành đơn giản bao nhiêu, thì công việc “hậu
cần” càng phải được tổ chức chặc chẽ bấy nhiêu, để mọi hoạt động đều vẫn có thể
đạt được theo tôn chỉ đã đề ra. Muốn như vậy, sự mở rộng tổ chức phải tiến hành
dần từng bước, theo số lượng người và mức độ tin cậy, để có thể duy trì sự ổn
định và phát triển của bộ máy tổ chức đó.
Một khi các tổ chức đã được hình thành, thì các nội dung thông tin cần thiết
cho sự duy trì quĩ đạo vận động thống nhất giữa các đơn vị ấy, sẽ phải mau
chóng hoạt động đáp ứng nhịp nhàng. Như chúng ta đã biết, các nội dung đó không
đâu khác hơn là do tự các đơn vị tổ chức chủ động và tự giải quyết lấy, trên nguyên
tắc các nội dung gợi ý hay góp ý điều chỉnh của ngôn ngữ A, dưới dạng các thông
tin để tham khảo và định hướng.
Sau đó, thông qua các tranh luận bình đẳng mà con người sẽ hình thành ra các
lời giải chung, và chúng được gọi là các Lý Lẽ Chung A. Và từ các Lý Lẽ Chung
đó mà các đại diện được cử ra sẽ lại hội ý với nhau, để tìm ra một Lý Lẽ Chung
A toàn diện cho một tổ chức ở qui mô chung hơn.
Khi có bế tắc trong tranh luận xuất hiện, thì trước hết lời giải nào tạo được
sự thỏa hiệp ôn hòa trong khi chờ thời gian kiểm nghiệm hay tìm ra một lời giải
khác tối ưu hơn, thì đó sẽ là lời giải cần được chọn.
“Thằng chột làm vua xứ mù”, câu tục ngữ cho thấy dù con người ở hoàn cảnh nào
cũng vẫn có thể tìm ra được một lời giải tối ưu nhất, phù hợp với điều kiện khả
năng sẵn có.
Như vậy, nhiệm vụ của ngôn ngữ A chỉ đưa ra cái khung gợi ý để mọi người tự
chọn và sử dụng nó theo khả năng của mình. Sự thành công của các hoạt động trên
là tùy vào khung nội dung gợi ý của ngôn ngữ A có đủ giá trị, để mọi người có thể
tự lý giải thành công cuộc cuộc sống hay không; chứ không phải nhờ vào một cá
nhân siêu việt nào đó tạo ra một quyền lực, để rồi cung cấp sẵn cho con người
mọi thành quả mong muốn, v.v...
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu để tạo đà phát triển, thì vai trò của cá nhân
gợi ý mở đường sẽ không kém phần quan trọng. Vì nó chịu trách nhiệm xây dựng
thói quen tranh luận và thói quen nhận thức ban đầu, trong quá trình hình thành
một hướng phát triển mới cho sự sống con người và xã hội.
Song song đó, sự hiện diện của nguyên tắc tổ chức, đứng đầu của mỗi tổ chức còn
có một Thư Ký, có nhiệm vụ làm đầu mối thông tin trong trách nhiệm tổ chức kiểm
tra Giám Đốc theo yêu cầu của các thành viên, như đã nêu ở chương trước, là một
điều kiện cơ bản để giúp cho cả bộ máy tổ chức được vận hành trung thực và
thành công.
Khi mà quyền kiểm tra công khai của mọi thành viên trong tổ chức đối với mọi
Giám Đốc, theo hàng dọc của toàn bộ cơ cấu tổ chức, đã được qui định, thì mọi
Giám Đốc đều có thể dễ dàng bị “phủ nhận” bởi bất kỳ thành viên nào trong tổ
chức, khi họ có đủ các chứng minh sai lầm theo qui định về vị Giám Đốc đó.
Sự phủ nhận đó được qui định cụ thể như thế nào, là tùy vào sự thỏa thuận thống
nhất của mỗi tổ chức hay của tổ chức chung nhất của mọi tổ chức đó.
9. THỰC TẾ TỔ CHỨC VÀ NỘI DUNG SINH HOẠT
Chúng ta biết rằng các hoạt động của con người phát triển theo hai định hướng tổ
chức, định hướng vật chất và định hướng tinh thần. Chúng ta có thể tạm gọi định
hướng đầu là của các Tổ Chức Nghề Nghiệp, và định hướng sau là của các Tổ Chức
Đời Sống Gia Đình.
Tất nhiên, trong Tổ Chức Nghề Nghiệp sẽ vẫn có mang một phần nội dung của Đời
Sống (hay Tổ Chức Đời Sống Gia Đình), vì trong đó có yếu tố về quan hệ “con
người”; và trong Tổ Chức Đời Sống Gia Đình sẽ vẫn có mang một phần nội dung của
Nghề Nghiệp (hay Tổ Chức Nghề Nghiệp), vì trong đó có yếu tố “vật dụng”.
Trong tổ chức nghề nghiệp, người ta có thể thay thế dễ dàng vị Giám Đốc nếu đó
là vị Giám Đốc được phân công. Nhưng nếu vị Giám Đốc cũng đồng thời là chủ sở
hữu của đơn vị đó, thì người ta sẽ khó có thể thay thế vị Giám Đốc đó được.
Cũng tương tự như vậy, ví dụ như trong một tổ chức gia đình thì người con không
thể “cách chức” cha mẹ được, vì đó đã là một sự thật khách quan không thể phủ
nhận. Nhưng nếu đó là một Gia Đình do nhiều người tự giác hợp nhau mà lập
thành, thì sự thay thế người đứng đầu không phải là chuyện không thể.
Chúng ta biết rằng, sự phát triển chỉ trở nên hiệu quả khi mọi sai lầm phải
được thay thế bằng một sự đúng đắn khác hợp lý hơn. Nhưng như trên đã nêu,
trong cuộc sống khách quan, sẽ có những trường hợp mắc sai lầm mà con người vẫn
không thể có đủ điều kiện làm thay đổi nó bằng một nhân tố khác hợp lý hơn. Do
đó, sự trì trệ mức sống của con người từ lâu, phải chăng vì thế mà chậm được khắc
phục.
Trong ngôn ngữ A cho rằng, bản chất Hạnh Phúc của con người là nằm trong khả
năng nhận thức của mỗi con người về sự sống, chứ không lệ thuộc chính vào yếu
tố tổ chức như là một yếu tố then chốt để có thể tạo sự áp đặt lên sự sống của
con người. Vì thế, khi yếu tố tổ chức hình thức không còn mang ý nghĩa thuận
lợi nữa, thì con người sẽ có thể phủ nhận nó bằng một hình thức tổ chức khác,
hay bằng sự cố gắng tự phát triển nhận thức cá nhân để tìm cách hóa giải hoàn
cảnh. Tuy nhiên, cách hai sẽ đòi hỏi con người phải có nhiều nghị lực và phải
mất nhiều công sức hơn, để đạt đến thành công cuối cùng.
Mặt khác, ngôn ngữ A còn có thể đóng vai trò như một nhân tố tác động bao trùm
lên đời sống con người, nên nó sẽ có những khả năng nhất định để làm thay đổi
dần những sai lầm vô lý được biểu hiện nơi các vị “Giám Đốc cố định” kia. Đó là
những góp ý về tính độc đoán chủ quan và sai lầm của con người trong quan hệ
với nhau, dù đang ở bất kỳ vị trí nào trong cuộc sống cộng đồng; đồng thời cũng
nêu ra những hướng khắc phục để các vị “Giám Đốc cố định” có thể mở rộng tấm
lòng mà có những thay đổi tích cực, phù hợp với những yêu cầu hợp lý của thực
tế đời sống.
Ngoài ra, ngôn ngữ A cũng là một hình thức tổ chức đa dạng và linh hoạt, nên
mọi trở ngại quá đáng đều có thể được khắc phục bằng một lý giải hợp lý, dựa
trên tính tất yếu trong qui luật sinh tồn của xã hội loài người.
Như vậy, trong ngôn ngữ A, vấn đề tổ chức luôn nằm trong khả năng chủ động của
con người, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Vấn đề còn lại là thực hiện các nội
dung sinh hoạt trong các tổ chức của ngôn ngữ A, qua thực tế sẽ diễn biến như
thế nào, để trở thành như một nhân tố trung tâm cho sự tồn tại và phát triển
tích cực của một tổ chức hay cho sự sống của con người.
Tạo hóa sinh con người ra để sống. Do đó, khi định nghĩa bản chất sự sống con
người là tinh thần, thì trong hoạt động đời sống xã hội, vai trò của tổ chức
Đời Sống (Tổ Chức Đời Sống Gia Đình) sẽ có ý nghĩa quyết định hơn đối với tổ
chức Nghề Nghiệp. – Khi các yếu tố về Nghề nghiệp đã tương đối ổn định.
Vì vậy, trong tổ chức Nghề Nghiệp, khi người Giám Đốc chịu trách nhiệm điều
hành về chuyên môn nghiệp vụ (có đối tượng là vật chất), thì công việc của Thư
Ký, đóng vai trung gian kiểm tra và hướng dẫn kiểm tra, sẽ mang nặng ý nghĩa
bảo vệ về “Ích lợi vật chất” cho con người (có đối tượng là vật chất trong quan
hệ con người với nhau).
Do đó, trong tổ chức Nghề Nghiệp có đối tượng là vật chất, nhìn chung các nội
dung sinh hoạt là rõ ràng, vì bản chất của các ngành nghề vật chất thường dễ có
cơ sở khoa học cụ thể rõ ràng. Và vai trò của Thư Ký kiểm tra là đảm bảo cho nó
không mâu thuẩn với quyền lợi chung trong mọi khía cạnh liên quan; vì thế, khía
cạnh nội dung sinh hoạt sẽ dễ mạch lạc khi nó, đa số chủ yếu xoay quanh vấn đề
chuyên môn nghề nghiệp đến tiền nong phân chia sao cho hợp lý, sau đó mới đến
các quan hệ chủ thợ, các quan hệ sinh hoạt nội bộ với nhau, v.v... (gọi chung
là các nội dung vật chất có ý nghĩa tinh thần).
Nhưng đối với các tổ chức Đời Sống, thì nội dung sinh hoạt mới thật sự là một
vấn đề vô cùng phức tạp, vì nó là yếu tố cuối cùng để đánh giá quá trình sinh
tồn của mỗi đời người, có đem lại được kết quả Hạnh Phúc như mong muốn hay
không.
Người Giám Đốc trong tổ chức Đời Sống ắt phải, vừa là người chăm lo về đời sống
vật chất và cả về đời sống tinh thần của tất cả thành viên trong tổ chức. Nhưng
trong đó, khi nhìn chung về nội dung sinh hoạt của tổ chức này dưới góc độ ngôn
ngữ A, thì vai trò đời sống tinh thần của con người ngày càng lộ rõ tầm mức
quan trọng quyết định của nó trong tổ chức, khi mà điều kiện về đời sống vật
chất chung của tổ chức đã tương đối. Do đó, người Giám Đốc, trong tổ chức Đời
Sống, phải được xem như có trách nhiệm chính về mặt đời sống tinh thần của tổ
chức. Vậy người Thư Ký khi đó sẽ mang nặng ý nghĩa kiểm tra phân chia công bằng
về quyền lợi tinh thần cho các thành viên trong tổ chức, hơn là sự kiểm tra
nặng về vật chất (gọi chung là các nội dung sinh hoạt tinh thần có ý nghĩa vật
chất).
Đến đây nhiệm vụ của Giám Đốc tổ chức Đời Sống đã khó, mà nhiệm vụ của Thư Ký
kiểm tra cũng sẽ gặp khó khăn không kém; nên bài toàn về nội dung sinh hoạt của
tổ chức này là một thử thách quyết định đối với mọi người và cả đối với ngôn
ngữ A.
Ai cũng biết rằng sự sống của mỗi đời người được tính bằng thời gian; cứ sau
mỗi thời gian là có một kết quả sống của một phần đời người được tạo ra. Như vậy,
để có thể chủ động được kết quả phát triển về sự sống của mỗi đời người, thì
mỗi người cần xem trong mỗi đơn vị thời gian đó, họ đã sử dụng nó ra sao hay
như thế nào cho cuộc sống.
Như ngôn ngữ A đã giới thiệu, Quan Điểm Luận Chuẩn là nền tảng để suy ra ý
nghĩa tuyệt đối về sự tồn tại của loài người. Tuy nhiên, Quan Điểm Luận Chuẩn
chỉ có thể đạt được, khi mà mọi con người đều có thể thống nhất với nhau về một
quan điểm chung sống hòa bình và hạnh Phúc cho tất cả như thế nào đó. Và từ ý
nghĩa tuyệt đối đó, con người mới có thể suy ra ý nghĩa sinh tồn của mỗi đơn vị
thời gian của mỗi đời người đang là gì. Điều đó, ngày nay, rõ ràng không phải
là điều có thể thực hiện được trong cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên, dựa vào kinh
nghiệm của Phức 12, con người vẫn có thể gợi ra các lý giải phù hợp, hơn là
phải bỏ công theo đuổi các góp nhặt để có thể và tạo ra được sự thống nhất,
trước một rừng vô tận các quan điểm sống của tất cả mọi con người trên thế gian
này...
Do đó, nội dung sinh hoạt, trong một tổ chức Đời Sống, không cần phải có những lý
giải, lý lẽ dài thượt mà là những minh chứng lợi ích cụ thể, hay những điều gì
cần thiết thực cho sự sống tức thời so với khoảng thời gian còn lại của mỗi đời
người, theo một sự hợp lý tương đối trên cái chung nhất định nào đó, là được.
Bản chất sự sống của mỗi con người là thích sống theo những gì bản thân họ cảm
thấy cần, và sẽ không thích hợp với những gì không thuộc về các nhu cầu từ
trong bản chất nội tâm nguyên thủy nhất của mỗi con người.
Hay vấn đề khó khăn là, điều mỗi người cảm thấy cần, có khi lại mâu thuẩn với
điều mà bản chất nội tâm nguyên thủy của bản thân người đó cần; tức là nó như
mang tính mâu thuẩn giữa các quyền lợi riêng và chung, hay đó là sự mâu thuẩn
giữa một bên là tính hợp lý tất yếu của xã hội và bên kia là các lợi ích Hạnh
Phúc cá nhân riêng tư.
Do có sự mâu thuẩn đó, mà một nội dung sinh hoạt có thể rất có ý nghĩa về mặt
lợi ích xã hội toàn diện, nhưng lại không phù hợp với cái cảm thấy cần trước
mắt của mỗi người. Và một nội dung sinh hoạt có lợi cho sự đáp ứng trước mắt,
nhưng vẫn có thể là sẽ có hại cho lợi ích chung về lâu dài của mỗi người, cũng
như của mọi người.
Vì thế, trong ngôn ngữ A, để xây dựng thành công một mô hình tổ chức, thì mọi
người cần phải được tìm hiểu và rèn luyện về khả năng hiểu và kết hợp được giữa
lợi ích xa với lợi ích gần vào chung một nguyện vọng trước mắt, để các nội dung
sinh hoạt ngày càng hợp lý và mang lại hiệu quả cao cho đời sống con người hơn.
Tuy nhiên, như chúng ta đã được chứng minh, lợi ích xa thuộc về đặc tính của sự
phát triển về mức sống tinh thần, và lợi ích gần là thuộc về đặc tính của sự
phát triển về mức sống vật chất. Mỗi mức sống trên tương ứng với hai cách sống
hoàn toàn khác nhau, mà trong mỗi đời người không dễ gì có đủ điều kiện để tạo
được sự kết hợp giữa chúng lại với nhau để tạo thành một mức sống thống nhất, một
cách hài hòa lý tưởng.
Do đó, sự hợp nhất trên chỉ có thể thực hiện được bằng sự hợp lực của tất cả
mọi người, sau khi đã có một sự phân công ngẫu nhiên và hợp lý nào đó. Đó là
mọi tâm 1 đều cần đến 0 và mọi tâm 0 đều cần đến 1. Nhờ đó mà mỗi người không
cần phải tốn công, phí sức để hiểu biết tất cả, mà vẫn được biết tất cả mỗi khi
cần; vì mọi người đều có ý thức tự giác, tích cực hợp lực bổ sung cho nhau giữa
cái thừa và cái thiếu từ mỗi phía, sau một quá trình rèn luyện cơ bản về tâm
thức, để nhằm tạo sự ích lợi và sự sống thành công chung.
Do bản chất sự vận động của thế giới tồn tại là thống nhất, nên mọi mô hình vận
động của mọi đơn vị tổ chức cũng đều phải tiến về một tâm điểm thống nhất. Như
vậy, mọi Giám Đốc đều phải tự giác định hướng nội dung sinh hoạt của mình theo
một nội dung hợp lực thống nhất, đã được qui định như thế nào đó bởi một môi
trường tổ chức, như của ngôn ngữ A chẳng hạn.
Theo ngôn ngữ A tâm điểm qui định đó, chúng ta gọi là tâm điểm 0 hay Hạnh Phúc,
mà mọi giám đốc của các tổ chức đều phải thống nhất hướng về. Tâm điểm 0, nó là
một khái niệm trừu tượng vô hình, nhưng cũng có thể là một thực thể hữu hình.
Nó là hữu hình khi nó có một con người cụ thể làm đại diện cho nó. Đó là các
Giám Đốc 0 đã được rèn luyện thành công về tâm 0 làm tâm chính của sự sống đời
người. Song, sự đại diện đó cũng chỉ là tương đối; sự tuyệt đối của nó chỉ có
thể có trong tưởng tượng, về cái 0 tuyệt đối và lý tưởng trong suy nghĩ của mỗi
người. Hay do mỗi người đều có một ý thức nhất định về tâm 0 (tâm thiện) một
khi họ đã có chủ ý về nó, thì đó cũng có thể là cơ sở để tạo nên một Giám Đốc 0
trừu tượng thông qua sự đan chéo giữa các ý thức đó của mọi người với nhau, để
làm kim chỉ nam thống nhất cho mọi hoạt động đa dạng của tất cả các tổ chức
trong môi trường ngôn ngữ A, khi nó bị thiếu đi một Giám Đốc 0 cụ thể.
Như vậy, trong giai đoạn đầu hiện nay, nếu Giám Đốc 0 là hữu hình, thì sẽ là
tâm điểm tạo thuận lợi “quyết định” cho sự phát triển thuận lợi của các nội
dung sinh hoạt trong các tổ chức Đời Sống, hay cả Nghề Nghiệp, theo hướng thúc
đẩy sự phát triển dần tâm 0 trong mỗi người.
Nội dung sinh hoạt đó phải chăng sẽ được gợi ý như sau:
Sự sống con người thì đa dạng, nhưng nhu cầu thực tế của mỗi người trong cuộc
sống thì thường cụ thể, đơn giản, dễ hiểu và phát triển tăng dần. Tuy nhiên,
nếu khi con người chưa hiểu được bản chất của các nhu cầu đó, thì mọi nội dung
sinh hoạt đều sẽ dễ trở thành kém hiệu quả.
Trước hết con người, trong mỗi tổ chức, cần có tính trung thực trước những nhu cầu
thực tế đang xảy ra trong cuộc sống đối với mỗi người, để từ đó lấy làm cơ sở
xây dựng các nội dung sinh hoạt thích hợp cho riêng mỗi tổ chức đó.
Song, phải chọn nội dung nào là trọng tâm nhất trong các nhu cầu của nhiều
người (hay của một ai đó), để làm đề tài sinh hoạt hay lý giải tuần tự. Nếu
không xác định được một nội dung trọng tâm nào, thì có thể chọn theo cảm tính
một nội dung nào tiện nhất, làm điểm tựa cho sự bắt đầu các nội dung sinh hoạt.
Trong mỗi nội dung sinh hoạt bao giờ cũng xảy ra những yêu cầu có thể được đáp
ứng hay lý giải theo khả năng khách quan tại chỗ; nhưng cũng sẽ có những nội
dung không thể tìm ra lời giải đáp hiệu quả cho nó, trong điều kiện khả năng
của đơn vị đó. Trong trường hợp đó, Giám Đốc 0 hay các Lý Lẽ Chung A phải có
trách nhiệm tìm ra lời giải hợp lý nhất, đúng nhất về lý thuyết, để sau đó thông
qua thực tế sẽ kiểm chứng tính chân lý khách quan của nó, để cuối cùng lấy đó
làm kết quả bổ sung cho nội dung sinh hoạt của tổ chức đó.
Tuy nhiên, phần lớn sự sống con người ngày nay đều xoay quanh vấn đề đời sống
vật chất là chính, nên các nội dung sẽ đa số là đơn giản để lý giải, miễn là
mọi người đã cùng qui ước với nhau đặt quan hệ trên cái tâm thiện, Hạnh Phúc,
v.v... và Ngôn ngữ A. Nhưng bên cạnh đó, các biện pháp phát hiện và ngăn ngừa
sự vi phạm các thỏa thuận tiền đề kia của nhau, phải được kiểm tra hết sức chặc
chẽ và công khai, sao cho mọi sai trái đều dễ dàng bị phát hiện bởi nội bộ tổ
chức đó hay bởi tổ chức lớn nói chung.
Khi các niềm tin về quan hệ đời sống vật chất đã được ổn định, con người mới
phát triển lên các nhu cầu về đời sống tinh thần, hay nó đã phát triển dần từng
bước song song với giai đoạn đầu kia. Đến đây rõ ràng cần phải có những Giám
Đốc 1 có trình độ chuyên môn nhất định về ngôn ngữ A, để chịu trách nhiệm quản
lý và lý giải các nội dung sinh hoạt đặt ra, trước khi cần đến các Giám Đốc 0
hay các Lý Lẽ Chung A lý giải các bế tắc.
Như vậy, sự phát triển của tổ chức ngôn ngữ A sẽ lệ thuộc nhiều vào kết quả đào
tạo các Giám đốc 1 hay 1" (đọc là “một kép”) từ các Giám Đốc 0 hay 0"
(đọc là “không kép”). - Các thành viên của 1" và 0" được gọi là các
1' (một đơn) và các 0' (không đơn) trong một đơn vị tổ chức.
Để đào tạo 1", 0" có thể thông qua hình thức truyền đạt trực tiếp
hoặc gián tiếp từ các tài liệu thích hợp. Điều kiện đào tạo đó có thể được tóm
tắt như sau:
Trước hết 1" phải là những người dễ tiếp xúc với ngôn ngữ A nhất, như đã
giới thiệu ở nội dung trước, hay phải có cái tâm sống gần gũi với ngôn ngữ A.
Sau đó, phải là người có một số năng lực điều hành một tổ chức. Thông thường,
khi nhận thức của con người phát triển phù hợp với ngôn ngữ A bao nhiêu, thì
càng có khả năng điều hành một tổ chức bấy nhiêu, theo nghĩa phi bạo lực...
Chúng ta phân ra sự đào tạo 1" là để phục vụ cho mô hình phát triển theo
con đường Đơn 13, và sự đào tạo 0" là cho mô hình phát triển theo Phức 12,
cũng là để tạo tiền đề cho Đơn 13 phát triển mở rộng.
10. ĐÀO TẠO 1" CHO ĐƠN 13
Yêu cầu đào tạo 1", là làm sao giúp cho 1" có khả năng giữ cho sự
phát triển của tổ chức không nằm ngoài quỹ đạo của ngôn ngữ A, thông qua ba chức
năng nhiệm vụ: lý giải các vấn đề tại chỗ, truyền đạt thông tin hai chiều giữa
0" với các thành viên trong tổ chức, và giữa các tổ chức với nhau một cách
trung thực và hiệu quả.
Khả năng đó được gọi là trình độ sống của 1", từ góc nhìn của ngôn ngữ A.
Trình độ sống đó được xác định bằng ngôn ngữ A, trên cơ sở của cái tâm nhận
thức đã phát triển của mỗi 1".
Như vậy, đào tạo 1" là xây dựng cái tâm của 1" phát triển theo mô
hình tâm A của ngôn ngữ A. Có nghĩa là con người phải có ý thức về bản chất sự
sống đời người là thuộc về A vô hình, thông qua B hữu hình làm phương tiện cho
nó. Để dùng các yếu tố trong B vào mục đích xây dựng cho A, mỗi 1" phải
dựa và tùy vào năng lực tâm thiện của mình mà trung thực nhận ra đâu là sự thật
hiển nhiên của cuộc sống, và đâu là việc phải làm để cho mọi sự thật đó được
phát triển một cách tích cực nhất.
Tùy theo các việc làm trên đạt đến mức kết quả bao nhiêu so với Quan Điểm Luận
Chuẩn, hay so với qui luật phát triển xã hội hay so với kết quả thực tế chung,
để đánh giá Cái Tâm A của mỗi 1" đã được rèn luyện ra sao.
Để giúp cho năng lực tâm thiện của 1" được phát triển thuận lợi hơn,
0" sẽ cung cấp cho 1" nhiều thông tin có lợi cho sự rút ngắn thời
gian rèn luyện, để tham khảo. Đây cũng là quá trình quyết định về giá trị thật
của ngôn ngữ A đối với thực tế, cũng như về khả năng thật của các 0" trước
các 1".
0" cung cấp thông tin cho 1", trên cơ sở của bốn bước nội dung dành
cho người muốn tìm hiểu về ngôn ngữ A bằng con đường Đơn 13, như đã được giới
thiệu ở chương trước. Đối với 1", chúng ta có thể xem như trình độ đã trải
qua bước 1 và đang ngấp nghé để qua bước 2.
Trước khi qua bước 2, phải đúc kết về các nhận thức đối với tính giới hạn chu
kỳ của các mức sống hưởng thụ vật chất của bước 1, thì sự tìm hiểu bước 2 tiếp
theo mới có thể đem lại kết quả tốt.
Bước 2 là giai đoạn rèn luyện khả năng phân biệt phải và trái trong quan hệ con
người. Để hình thành khả năng đó, mỗi 1" phải phát triển khả năng suy luận
của mình về: con người và sự sống là gì?. Tại chương 7, chúng ta đã được giới
thiệu về “Các bài học cơ bản trong Tiểu Lộ”, trong đó đã giới thiệu khá cụ thể
cho nội dung của bước 2 này. Đây là bước mà con người sẽ đi đến kết luận rằng:
mỗi Hành Động của con người đều có mang ý nghĩa của một (hp) hay (khp) nhất
định, nếu là (hp) thì Hành Động đó là đúng, và nếu là (khp) thì Hành Động đó là
sai.
Muốn biết một Hành Động mang ý nghĩa nào thì có thể: một là, cần biết động cơ
và mục đích của Hành Động đó về nghĩa đen và nghĩa bóng của nó, trong quá trình
biểu hiện; hai là, xét vấn đề trên theo góc độ cái tâm bản chất của toàn diện
vấn đề đó vận động theo hướng nào, vật chất hay tinh thần; và ba là, cách thực
hiện hay biện pháp của Hành Động có mang tính bạo lực hay phi bạo lực.
Cả ba đại ý trên tất yếu sẽ ít nhiều có liên quan mật thiết với nhau, trong đó
đại ý thứ hai chỉ đúng khi nó là một bộ phận của qui luật vận động của thế giới
tồn tại. Các thông tin về qui luật vận động của thế giới tồn tại là gì, sẽ do
0" chịu trách nhiệm giới thiệu để 1" tham khảo. Sau đó tùy theo sự
kết luận của 1", mà tất cả sẽ cùng theo dõi kiểm tra tính đúng đắn của nó,
khi 1" ứng dụng nó để lý giải cho đại ý đầu. Tất cả sự hay hoặc dở của kết
quả trong quá trình trên đều sẽ có thể được kiểm chứng trước mắt bằng sự chấm
dứt bạo lực trong đại ý ba. Sau đó, sẽ tùy vào thực tế và thời gian để kiểm
chứng một cách toàn diện hơn.
Tất cả các thông tin được sắp xếp thành một hệ lý lẽ liên tục, hợp lý và khoa
học, đủ để ứng dụng hiệu quả vào thực tế. Vấn đề có thể diễn biến như sau:
Tất cả bắt đầu từ nhu cầu được sống và Hạnh Phúc, nhưng con người vì lý do này
hay lý do khác, mà nguyện vọng trên không đạt được như ý. Trước thực tế đó, mỗi
người có nhiều cách khác nhau để khắc phục, nhưng kết quả thì có người thành công,
người khác lại thất bại. Tìm hiểu người bị thất bại, thì đa phần sẽ có thể qui
lỗi trực tiếp cho người đang thành công. Ngôn Ngữ A cho cách suy như thế không
phải là một lý giải đúng.
Đúng nhất phải chăng là do sự giới hạn khách quan của sự phát triển khả năng
nhận thức của thế giới loài người gây ra. Cách khắc phục là, con người phải tìm
thấy sự Hạnh Phúc cuối cùng là ở nơi cái tâm của mỗi con người. Từ đó suy ra, mọi
lợi ích phải được phân chia hợp lý theo một trật tự nhất định, về vật chất cũng
như về tinh thần cho tất cả mọi người.
Từ nguyên tắc phân chia trên, suy ra cách phân chia áp đặt chủ quan là sai
trái, và chỉ có cách phân chia tự nguyện tự giác là hợp lý nhất. Và kế đến, vấn
đề xã hội bạo lực khác với xã hội không bạo lực được đặt ra như thế nào. Và sau
cùng, là bằng cách nào để con người chỉ sử dụng lẽ phải trong ôn hòa, mà vẫn
giải quyết được mọi vấn đề về con người và xã hội một cách thành công.
Nhưng để hiểu lý nào cuối cùng dẫn con người đến mô hình một xã hội bạo lực và
lý nào không, thì đó là một khó khăn mà theo ngôn ngữ A, chỉ có sự tranh luận
công khai giữa các ngôn ngữ, để cuối cùng phần thắng sẽ cho phép con người suy
ra các kết luận. Tức là trong quá trình tranh luận đó, thì bản thân 0" đến
1" sẽ có khả năng nêu được nhiều góp ý có giá trị ứng dụng tốt hơn so với
các lý lẽ khác. Vì vậy mà vấn đề được bắt đầu từ 0" và 1"...
Như vậy, để phân biệt sai và đúng hay (khp) và (hp), mỗi 1" phải dựa vào
nội dung chung trên, cộng với một số phương pháp lập luận cụ thể, cộng với cái
tâm, và cuối cùng cộng với những thông tin góp ý từ 0" để suy ra những kết
luận hữu ích nhất.
Phương pháp lập luận cụ thể là dựa trên trình độ sống của mỗi đối tượng mà nêu các
nội dung thích hợp như: sở thích hạnh phúc thường là vật chất, hay nặng chú
trọng đến quyền lợi cục bộ, hay dùng quyền và ưu thế để áp đặt nhau, hay phát
ngôn thiếu trung thực để kiếm lợi về phần mình, nó do cố ý hay do vô ý hoặc
không biết, do khách quan hoặc chủ quan, chủ trương sự sống hưởng thụ hay khắc
khổ, có nguyện vọng sống trước mắt và lâu dài ra sao, đang có điều kiện sống
như thế nào, gia đình, xã hội, v.v...
Trong ngôn ngữ A, do tất cả vì mục đích giá trị tinh thần là chính, nên mọi giá
trị vật chất được sử dụng ra sao sẽ là sự biểu hiện kết quả của quá trình phát
triển về Tinh Thần của một con người, mà các 1'' sẽ dựa vào đó để có những trao
đổi tương ứng. Khi có mâu thuẫn thực tế, thì tạo điều kiện cho các bên tranh
luận với nhau bằng ngôn ngữ qui định; sau khi có kết quả tranh luận, thì mọi
người sẽ là trọng tài giám sát tính đúng đắn của kết luận đó về thực tế cũng
như về thời gian.
Ngoài ra sự chuyển đổi tổ chức cho phù hợp trình độ, v.v... cũng là một biện
pháp hữu hiệu. Nhìn chung, các phương pháp lập luận được vận dụng gần giống như
bao kinh nghiệm thông thường đã có, chỉ khác là ở đây có sự giao quyền tự quyết
về cho mỗi người, bên cạnh sự kiểm tra và điều chỉnh của Bộ Máy Nhận Thức từ
ngôn ngữ A. Để rồi kết quả cuối cùng, hay hoặc dở, sẽ tùy thuộc tất cả vào bản
chất tích cực nguyên thủy của xã hội loài người quyết định!
Như vậy bước 2, chủ yếu là khẳng định sự đúng đắn của các lẽ phải thông thường,
mà từ lâu xã hội thiếu chú ý đến, để giờ đây chúng cần được vận dụng công khai
hơn và hiệu quả hơn trong đời sống con người và xã hội.
Bước 3, là phương pháp xây dựng và củng cố tâm A cho 1". Bản chất cái tâm
con người, cuối cùng, là đi tìm một sự bình yên tuyệt đối. Trong Đơn 13, cách
đơn giản nhất là mỗi người đi tìm sự bình yên trong chính cái nghề nghiệp mà
mình đã, đang và sẽ chọn để làm điểm tựa cho sự bền vững và thăng hoa Hạnh Phúc
trong mỗi nội tâm con người.
Vấn đề của ngôn ngữ A là làm thế nào bảo vệ sự ổn định nghề nghiệp đó cho mỗi
con người. Đó là vấn đề lâu dài, còn trước mắt, mọi 1" đã sẵn có nghề
nghiệp, thì hãy nuôi dưỡng nó bằng tất cả sự tận tụy và khả năng tốt nhất của
mỗi người.
Bước 4, là bước kết quả có được từ sau bước 3, đây là vấn đề của sự đi tìm cái
hoàn thiện tuyệt đối của giá trị sự sống Hạnh Phúc đời người. Sự sống là một
chuỗi dài các biến động đa dạng và biến hóa khôn lường. Do đó, sự bình yên bền
vững trong nội tâm của mỗi con người, chỉ có thể là sự vận động hòa nhịp trong
sự thích ứng khả năng của mỗi người trước các biến động đa dạng đó của cuộc sống,
theo hướng tích cực của ngôn ngữ A.
Bước 3 là giai đoạn tạo khả năng thích nghi mới cho mỗi người, để bước 4 là
giai đoạn mà mỗi con người sẽ mở rộng phạm vi thích nghi trên đối với cuộc
sống. Nếu sự sống là một tổng thể biến dạng vô hạn, thì sự mở rộng phạm vi kia
cũng sẽ phải được mở rộng đến vô hạn. Và quá trình mở rộng đó, chính là khái niệm
Hạnh Phúc tuyệt đối của mỗi 1" được hình thành vậy.
Tùy theo năng lực, ý thích và hoàn cảnh của mỗi người mà phạm vi mở rộng khả
năng trên sẽ cho ra kết quả rộng hay hẹp. Dù là rộng hay hẹp, thì Hạnh Phúc đời
người cũng sẽ gần tương tự như nhau, vì nó tùy thuộc vào những cảm xúc sở thích
riêng tư của mỗi người, trong từng hoàn cảnh nhất định.
Như vậy, Hạnh Phúc đời người, trước tiên phải là sự ổn định trong cái tâm bình
yên của mỗi người, và sau đó là quá trình biểu hiện sự bình yên đó ra ngoài
theo một không thời gian luôn được rộng mở.
Trên đây đã giới thiệu các nét chính để đào tạo các 1". Để đào tạo các
thành viên của 1", thì nội dung cũng có thể tương tự, nhưng vì cái sở ý
(sở thích và ý muốn) của các 1' thường có giới hạn hơn trong vấn đề này, nên
mức độ truyền đạt cũng sẽ chỉ trong giới hạn tương ứng.
Thông thường, nhu cầu phổ biến của các 1' đối với cuộc sống có thể rất đơn giản
như: một vài ký gạo, có một tháng lương, một gia đình, một quan hệ tình cảm, v.v...
Do đó, để đáp ứng hiệu quả, vấn đề chỉ có thể là những đáp ứng trực tiếp cho
các nhu cầu trên, để tạo tiền đề hứng thú trên con đường tiến dần đến ngôn ngữ
A. Hay cũng có thể đáp ứng các nhu cầu trên bằng một giá trị lợi ích tương tự
nào đó, như gợi ý nêu ra một số lý giải hợp lý nào đó, v.v... để sau cùng sao
cho, người được đáp ứng không cảm thấy bị lừa trong niềm tin, khi mà các yêu
cầu đòi hỏi đó có thể là chính đáng trong phạm vi hẹp nhưng trong phạm vi rộng
thì chưa.
Khi đã qua được giai đoạn nhập đề trên, thì vấn đề cần là làm sao từng bước hướng
các nhu cầu trên, khi phát sinh, phải được gắn kết với một ý nghĩa lý giải hợp
lý nhất định đối với sự sống xung quanh, cũng như đối với cả cái tâm thiện cơ
bản của người đó nữa.
Gắn ý nghĩa vào mỗi nhu cầu của các 1', sẽ không khác gì hành động gắn cái
thắng hay cái phanh vào mỗi chiếc xe đang vận hành. Điều đó vô cùng có lợi cho
môi trường sống cộng đồng, và cũng có lợi cho bản thân những người đang có nhu
cầu cần được đáp ứng đó.
Trách nhiệm gắn các ý nghĩa trên vào các nhu cầu là do các 1" đảm nhiệm,
bằng sự cung cấp các thông tin thích hợp và kịp thời cho các 1' đang có nhu cầu
phát triển cuộc sống một cách tốt nhất.
Và như thế một mô hình hệ thống tổ chức của ngôn ngữ A đã được phát họa, mà
trong đó, mọi nhu cầu của các thành viên tổ chức sẽ được đáp ứng hiệu quả, trên
nền của một hệ thống lý giải đã được mọi thành viên cùng thỏa thuận thực hiện
theo một qui ước thống nhất nhất định. Ngôn Ngữ A gọi hệ thống nhận thức và
quan hệ sinh tồn như vậy, là một phương thức sinh tồn dưới sự điều hành của Bộ
Máy Nhận Thức của cộng đồng, thông qua Ngôn Ngữ A.
Tất cả chỉ được hình thành bằng sự tất yếu trong nhận thức, trong tự giác,
trong bản tính trung thực của mỗi người trước mọi sự thật của thế giới tồn tại,
trong sự tranh luận bình đẳng không giới hạn giữa mọi người với nhau, và trong
một môi trường ngôn ngữ A nhất định. Để cuối cùng, mọi kết quả sẽ tùy thuộc vào
sự kết luận của bản chất tích cực nguyên thủy cơ bản của con người là gì, mà
điều đó có tính quyết định hơn mọi sự quyết định chủ quan nào của mọi cá nhân
hay của mọi tập thể tổ chức nào khác, trong điều kiện của một Môi Trường Sống
Bình Thường!
11. ĐÀO TẠO 0" THEO PHỨC 12
Nếu 1" cho mọi 1', thì cũng cần phải có 0" cho mọi 0'. Chúng ta cũng
cần nhớ rằng mọi 0" đều sẽ không bao giờ giống với 0" đầu tiên. Vì
vậy, sự trưởng thành hay sự thành công của các 0" sau chỉ có thể bằng
chính sự sáng tạo độc lập của các 0" đó hay của các 0' nhập môn. Tuy
nhiên, các yếu tố để thành công, có lẽ, bao giờ cũng giống nhau trên một số
nguyên tắc cơ bản nhất định.
Con đường đào tạo 0" sẽ có thể phải trải qua 5 bước chính như đã được giới
thiệu trong chương 7.
Bước 1) là các 01 (thay cho 0', tức là còn 1 chưa đạt đến tâm 0) phải xác định
niềm tin giá trị sự sống con người, là nằm trong khả năng phát triển các nhận
thức của mỗi người là chính. Các biểu hiện của thế giới tồn tại, dù có như thế
nào, nhìn chung là cũng đều phải tùy vào sự cố gắng của con người là chính để
tìm đến sự sống Hạnh Phúc lý tưởng.
Bước 2, là các 01 đi tìm sự lý giải về các nhân quả của mọi hiện tượng đang xảy
ra trong thế giới tồn tại. Trong các hiện tượng đó, sẽ có những hiện tượng dễ
thấy và dễ lý giải, nhưng đồng thời cũng có nhiều hiện tượng rất khó thấy và rất
khó lý giải. Trong các hiện tượng khó lý giải đó, sẽ có những hiện tượng không
bao giờ có thể lý giải được, thì khi đó mỗi 01 phải nghĩ ra cách lý giải hợp lý
nhất, sao cho có lợi nhất cho các lý giải khác, nhất là các lý giải về quyền
lợi sinh tồn của thế giới con người nói chung.
Trong quá trình xảy ra bước 2, thì đồng thời các công việc của bước 3 cũng từng
bước được thực hiện dần.
Khi các vận động của thế giới tồn tại được lý giải nhân quả theo từng vấn đề
một, để sau đó tìm cách đưa mọi lý giải trên kết hợp lại thành một hệ lý giải
nhân quả thống nhất, toàn diện trên mọi lĩnh vực. Từ nhận thức được cái nguyên
lý vận động chung trên, mỗi 01 sẽ tìm cách đưa nó học thuộc vào vô thức của
mình hay tức là đưa nó vào tâm A của mình.
Để thực hiện quá trình trên, các 01 phải kiểm tra các cảm xúc của mình trước
mỗi vấn đề, xem nó có phát triển phù hợp với diễn biến kết luận chung trên
không. Nếu chưa, thì phải dần điều chỉnh theo từng vấn đề một các cảm xúc ấy,
đồng thời phải biết suy ra mỗi vấn đề trên là đại diện cho một tổng thể chung
của một hệ vấn đề nào đó. Và sau đó, từ sự kết hợp của tất cả các tổng thể
trên, các 01 sẽ qui ra được thành hai phạm trù cơ bản: phạm trù Vật Chất và
phạm trù Tinh Thần, trong tư duy nhận thức về sự sống của các 01.
Như thế có nghĩa rằng: cuối cùng sự điều chỉnh cảm xúc của mỗi 01 sẽ được qui
lại chỉ còn hai khái niệm cơ bản, khái niệm Vật Chất và khái niệm Tinh Thần. Từ
hai khái niệm đó, chúng ta qui khái niệm Tinh Thần thành 0 và cho khu trú tại
tâm A vô thức, và khái niệm Vật Chất thành 1 khu trú tại B có ý thức; trong đó,
0 được mang thuộc tính có trước và có tính quyết định đối với 1. Như thế có nghĩa
là, từ 0 con người sẽ có thể xây dựng nên mọi thế giới tồn tại mang cùng một
danh nghĩa thống nhất là 1. Và quá trình vận động phát triển của thế giới tồn
tại đó, luôn đặt trên nền tác động của qui luật QBAD để tạo nên một khái niệm
“SỰ SỐNG”, mà tạo hóa đã ngẫu nhiên phát mầm từ “Vô Thức” để được nhận biết tại
Ý Thức của loài người trái đất.
Bước 4, từ sự định hướng mọi nhận thức của 01 là về 0 như một khởi điểm cội nguồn
của tất cả, 01 mới dần từng bước xây dựng một hệ thống quan hệ mới với môi
trường xung quanh, trên nguyên tắc lấy 0 làm khởi điểm. Trong thực tế, 0 tượng
trưng cho sự bình yên và các cảm xúc hạnh phúc của tâm hồn. Do đó, xây dựng các
quan hệ theo một mẫu số mới 0, là phát triển và định hướng dần các cảm xúc về
sự sống đối với các thực tế đa dạng từ các vấn đề riêng lẻ đến các vấn đề chung
nhất, mà các nhận thức trước đây đã có công nhận dạng chúng và tổng hợp chúng
trở thành cảm xúc có góc tổng hợp là 0, nhưng trên nền của các cảm xúc cũ 1
trong suốt quá trình rèn luyện ban đầu đó.
Sự kết thúc của giai đoạn trên sẽ được đánh dấu, khi đối tượng nhận thức cuối
cùng phải chuyển đổi cảm xúc sang dạng mẫu số 0, là chính yếu tố mẫu số 0 đó
trong vô thức của con người. Sự đúc kết biện pháp để đạt được sự chuyển đổi
trên, có thể được tóm tắt bằng một phát họa để tham khảo, như sau:
Bước 5, sau bước 4, các 01 phải hoàn thành khả năng gom tất cả sự vận động của
cá nhân mình về tâm điểm 0, để từ đó hình thành thói quen sinh tồn dưới dạng
phản xạ có điều kiện, được hoàn toàn điều khiển bằng tâm A vô thức.
Và như thế một cách sống mới, ổn định và hiệu quả hơn, đã được xác định. Từ đây
sự tồn tại của con người sẽ do cái A lo liệu, hay tất cả là do cái 0 vô cùng
của “bản chất Người tích cực” lo liệu vậy.
Để thực hiện thành công các bước rèn luyện trên đây, các 01 sẽ không tránh khỏi
tìm thấy nơi tác phẩm này một sự giúp sức không thể thiếu.
Thông thường, các 01 phải hoàn thành con đường chuyển hóa thành 0" của
mình thành công, thì mới có thể thực hiện được vai trò 0" của mình một
cách hiệu quả trước các 1" hay các 01 khác tiếp theo. Đó là một tất yếu
hiển nhiên vậy.
Đối với các trẻ nhỏ, vấn đề truyền đạt ngôn ngữ A, trước tiên phải giúp trẻ
từng bước hoàn thành vai trò 1' của mình. Có nghĩa là, trẻ phải có ý thức sống
có lợi nhất cho mình, mà phải không gây hại đến người khác theo góc nhìn của
ngôn ngữ A.
Sau đó, tùy theo môi trường sống, khả năng và cùng với sở thích của trẻ phát triển
khi lớn lên, trẻ sẽ tự chọn theo hướng phát triển 1" hay 0" cho tương
lai của mình.
Mọi sự phát triển của 1' đều có thể trở thành 1" hay 01. Mọi sự phát triển
của 1" là nhằm để hướng đến 0', nhưng không thể tiến hơn nữa để trở thành
0". Nếu có xảy ra như thế, thì có lẽ đó là một sự hiếm hoi, trong thời
gian đầu phát triển (khá dài) của Ngôn Ngữ A.
Ghi chú, để hoàn thành bước 5, chúng ta có thể tham khảo một phát họa đúc kết:
“0 vô thức” có mục đích và ý nghĩa là mọi “1 có ý thức”, ý nghĩa trọn vẹn của mọi
“1 có ý thức” là tiến về sự vô cùng của “0 vô thức”!
12. CON ĐƯỜNG ĐẠI LỘ
Từ các Tiểu Lộ mà con người sáng tạo ra các Đại Lộ. Nếu từ lâu, các Đại Lộ đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, thì có lẽ các Tiểu Lộ sẽ không thể còn... kẹt
xe như hiện nay nữa.
Khi ngôn ngữ A nêu vấn đề Đại Lộ ra công khai, là cũng có dụng ý qui trách
nhiệm cho các Đại Lộ ngày nay chưa làm hết vai trò trách nhiệm một cách hiệu
quả hơn. Hay phải chăng với mô hình các Đại Lộ như hiện nay, thì có lẽ mãi mãi
nó sẽ không thể hoàn thành vai trò trách nhiệm của mình một cách lý tưởng được.
Ngày nay, thế giới đang phân thành hai khối ý thực hệ chính, dựa trên lý thuyết
của Các Mác về “Tư Bản Luận”. Nhưng trên thực tế, thì các hiện tượng biểu hiện
tồn tại của hai khối trên đang có biểu hiện gần tương tự như nhau. Đó là mỗi
khối, ít hay nhiều, đều có những bất ổn nan giải nhất định. Do đó, đi tìm lời
giải cho các nan giải trên là một việc làm không phải là quá phí công và vô ích
vậy.
Để ngôn ngữ A thâm nhập vào các ngôn ngữ B bằng con đường Đại Lộ, thì trước
tiên phải đi tìm sự giúp sức từ các Tiểu Lộ. Căn cứ vào khả năng nhận thức về
các Tiểu Lộ, ngôn ngữ A sẽ đặt vấn đề tranh luận về nội dung của Đại Lộ đối với
các ngôn ngữ khác.
Hệ thống các Đại Lộ đang có ngày nay, thông thường, đều do các chuyên gia hàng
đầu giỏi trong mỗi lĩnh vực chuyên môn, chịu trách nhiệm kết hợp nhau quản lý.
Do đó, một ngôn ngữ muốn hoạt động hiệu quả trên Đại Lộ của các phạm vi chuyên
môn nào đó, thì nhất thiết phải có sự hợp sức của các chuyên gia trong phạm vi
đó để cùng tìm ra những lý giải chung tốt nhất.
Qua nội dung của các chương trước, chúng ta cũng hiểu rằng, Đại Lộ là nơi lưu
thông của các Lý Lẽ Chung. Tuy nhiên, sự lưu thông của các Lý Lẽ Chung sẽ được
thuận lợi hơn, khi chúng không bị mâu thuẫn với các Lý Lẽ Riêng có trong các
Tiểu Lộ.
Khi ngôn ngữ A tự đánh giá mình có khả năng hiểu về Lý Lẽ Riêng tốt hơn các ngôn
ngữ khác, suy ra các quan điểm của Lý Lẽ Chung A sẽ có khả năng vượt qua được
các tắt nghẽn xảy ra trong các Đại Lộ của ngôn ngữ B.
Tuy nhiên, như đã giải trình ở các chương trước, không phải mọi tắt nghẽn trong
môi trường B đều có thể vượt qua được bằng ngôn ngữ A; mà chỉ những vấn đề
không thuộc về bản chất cơ bản của môi trường B, thì mới sẽ là những đối tượng
có thể lý giải hiệu quả bởi ngôn ngữ A. Hay ngôn ngữ A sẽ lý giải hiệu quả mọi
bế tắc của môi trường B, với điều kiện vấn đề phải được đặt trong bối cảnh của
môi trường A, sau khi các điều kiện tiền đề của ngôn ngữ A đối với ngôn ngữ B
đã được thỏa.
Tuy nhiên, dù đặt vấn đề trong môi trường ngôn ngữ nào, thì đối tượng cũng là
với bấy nhiêu con người đó. Như vậy, vì sao cũng với bấy nhiêu con người đó, mà
bên này thì đưa con người vào các ách tắc vương vấn, và cũng bấy nhiêu con
người đó đối với bên kia lại trở thành thông suốt? Như chúng ta đã biết, tất cả
chỉ khác nhau từ khâu chuẩn bị cách sống cho con người trong mỗi môi trường là
như thế nào.
Trong khi chờ một kết quả bàn luận về sự chuẩn bị cách sống cho con người phải
như thế này hay như thế kia, thì ngay từ thực tế, chúng ta đã có thể chỉ ra một
số bế tắc cơ bản mà một ngôn ngữ đang gây ra.
Ví dụ, nói đến Đại Lộ là thường nói đến qui mô vận động chung của một xã hội;
vậy xã hội đó là thuộc quyền sở hữu của ai? Người ta thường nói, xã hội là
thuộc về toàn dân. Nhưng để có thể hiểu ra thực tế nội dung trên có ý nghĩa như
thế nào, thì chúng ta hãy để ý xem ai có quyền quyết định đối với các vấn đề
chung của xã hội. Từ các quyết định đó, sẽ đem lại một số kết quả nhất định; vậy,
chúng ta hãy hỏi mọi người xem tất cả có đồng ý hết với các kết quả kia không?
Câu trả lời ắt là sẽ là không.
Như vậy, vấn đề đặt ra là: tại sao tất cả đều do dân làm chủ và tất cả đều làm
vì ý muốn của dân, vậy tại sao còn có những người dân không đồng ý từ chính các
kết quả do họ đã tạo ra kia? Và người ta tìm thấy rằng: giữa “người làm chủ” và
“người làm thay chủ” là hai giới người có thể rất khác nhau. Vì vậy, có thể suy
ra rằng, những kết quả xảy ra bất thường trong các xã hội ngày này là tất yếu
và hiển nhiên vậy!
Trước sự nghịch lý trên, các ngôn ngữ sẽ chọn một trong hai phía, để giao quyền
quyết định cuối cùng trước các vấn đề phát sinh của cộng đồng. Vậy là, trong
“hai người” trên sẽ chỉ có “một người” là được có ưu thế làm chủ đối với xã
hội, còn người kia thì không. Thế là phát sinh ra một mâu thuẫn cơ bản: “mọi
người dân làm chủ hay chỉ một thiểu số người làm chủ?”
Nhưng trong thực tế, người có quyền được làm thay chủ kia nhất định quả quyết
rằng, mọi người vẫn đang có quyền dân chủ. Cách kết luận như thế, thực tế cho
thấy, có người tin và cũng có người cảm thấy ngờ ngợ (?)!
Đồng thời thực tế cũng cho thấy khi có một ông vua độc tài và độc ác, thì từ
quan đến dân không phải ai cũng dễ dàng nói thẳng mọi sự thật đó trước mặt một
ông vua như thế, nếu như họ chưa hội đủ các lý do tạo động cơ! Vì thế, con người
sẽ không dễ gì thông qua các kiểm chứng công khai để tìm ra các chứng cứ thật
của một số hệ quả bất ổn nào đó trong xã hội, khi mà những nội dung đó còn nằm
ngoài sở thích của những người đang có ưu thế làm thay chủ kia.
Ngày nay, đời sống văn minh văn hóa nhân loại ngày càng phát triển, nên mọi
biểu hiện cực đoan thái quá trong các quan hệ xã hội đã được hạn chế dần, nhưng
không phải vì thế mà mọi sự thật đều đã trở nên đơn giản và sáng tỏ.
Như vậy, theo góc độ của ngôn ngữ A, nguyên nhân cơ bản của mọi trắc trở là có
nguồn gốc từ bài toán trong các vấn đề quan hệ giữa con người với nhau mà sinh
ra tất cả. Vì trong các xã hội, người dân thường được dân chủ về danh nghĩa
nhiều hơn là trong thực tế sự sống, hay quyền dân chủ trong các xã hội ngày nay
chưa thật sự đồng đều cho tất cả mọi con người.
Nếu đặt vấn đề, ngôn ngữ nào có thể đem lại hay trả lại quyền dân chủ công bằng
nhiều nhất cho mọi người dân, thì ngôn ngữ đó sẽ có cơ may giành ưu thế thắng
lợi cuối cùng. Vậy, ngôn ngữ A sẽ như là một ứng cử viên tích cực mới để thi
đua tìm ra lời giải mới cho vấn đề trên.
Nó, trước hết, là lời giải về quyền được tự do tranh luận bình đẳng trước các
thông tin khác nhau về “con người và sự sống”, mà mỗi người có thể nhận thức
được trong một thực tế nhất định. Khi quyền trên được cho phép phổ biến rộng
rãi, để nhằm đạt đến mục đích duy nhất, là giao quyền được sống Hạnh Phúc và bình
đẳng giữa mọi người với nhau về cho mọi người, thì con đường Đại Lộ mới thật sự
được khai thông.
Phải chăng đó là mục tiêu mà không ít các xã hội ngày nay đang không ngừng đề
cao và theo đuổi. Và phải chăng sự khó khăn của các vấn đề thời đại còn là: dân
là ai và ai là dân? Hay cụ thể hơn, dân nào có quyền trên Đại Lộ và dân nào
không có quyền tham gia tranh luận bình đẳng trên Đại Lộ?
Ngôn Ngữ A cho rằng mọi con người còn đang sinh tồn thì đều có quyền làm dân;
tuy nhiên, để diễn đạt thành ý tứ cụ thể trên Đại Lộ, thì chỉ những ai không bị
bệnh rối loạn trí óc và có nguyện vọng muốn diễn đạt các ý tứ đó ra, thì đều có
quyền đó như một quyền tối thiểu cơ bản, để quyền bình đẳng giữa mọi người với nhau
được tôn trọng và phát triển một cách triệt để nhất.
Sau quyền được diễn đạt công khai mọi nguyện vọng sinh tồn và Hạnh Phúc của mọi
người dân trước dư luận rộng rãi, là quyền được kết luận mọi phát kiến trên là
đúng hay sai để thực hiện. Tức là mọi người đều có quyền nhận xét và kết luận
trước mọi biểu hiện Hành Động hay mọi quan điểm lý lẽ công khai nào đó là đúng
hay sai, chứ không riêng gì những người giàu có, người đại diện dân cử, người có
sức mạnh quyền lực, hay v.v... mới có quyền đó.
Nếu xét trên phương diện một cá nhân, thì một nội dung nào đó có thể đúng với
cá nhân đó nhưng sai với mọi người, hay đúng với mọi người mà sai với cá nhân
đó. Vì vậy, phải hình thành ra một qui định chung, để nếu có sự mâu thuẫn trong
quan hệ con người với nhau, thì mọi người đều phải được trang bị nhận thức về
biện pháp nào để có thể giải quyết các cách biệt trên một cách hiệu quả nhất và
ôn hòa nhất.
Nếu gọi quyền lợi của mọi người là thuộc Lý Lẽ Chung của các Đại Lộ, và quyền
lợi của mỗi cá nhân cụ thể là thuộc Lý Lẽ Riêng của các Tiểu Lộ; thì thông
thường ngày nay, các Đại Lộ được giao quyền phủ quyết trước các Tiểu Lộ. Nên vì
thế, đời sống của các Tiểu Lộ sẽ dễ bị phát sinh các cảm giác như bị ức chế, bị
bất công, bị vi phạm quyền sống, v.v... bởi các quyền lực có trong các Đại Lộ
trong môi trường của ngôn ngữ B.
Vì sao bản chất của Đại Lộ là do sự tập hợp của các Tiểu Lộ, lại trở thành mâu
thuẫn với các Tiểu Lộ? Đó là vì trong Đại Lộ có nhiều mức sống Tiểu Lộ chênh
lệch rất khác nhau, trong số đó các mức sống được gọi là “ưu việt” đã lấn át
một cách ngẫu nhiên các mức sống kém hơn khác, để giành quyền “độc thoại” trên
các Đại Lộ. Nên các Đại Lộ, từ đó không mang được tính chất đại diện cho tất cả
các Tiểu Lộ, như con người đã quen hiểu hay quen nhận thức rằng ý nghĩa của các
Đại Lộ là phải như thế.
Sự lầm lẫn trên có thể được tính bắt đầu xảy ra từ giai đoạn có sự chuyển giao
quyền lực, từ các Tiểu Lộ sang thành các Đại Lộ, tức từ yếu thành mạnh. Sự
chuyển giao đó được xảy ra phổ biến trong các xã hội ngày nay, thông qua các
hình thức BẦU CỬ là chính, và ngoài ra cũng còn có các hình thức áp đặt chủ
quan hay khách quan khác.
Thực tế đã chứng minh, không ít các cuộc bầu cử xảy ra không đúng với quyền lợi
của mọi người dân trong một xã hội; hay có thể nói, nó chưa đúng với qui luật
tiến hóa để xây dựng nên một xã hội ấm no và Hạnh Phúc. Điều đó, phải chăng là nguồn
gốc biểu hiện về hình thức, sự yếu kém của các cơ chế tổ chức của các xã hội
ngày nay. Hay đó là sự yếu kém tất yếu của môi trường B nói chung, về trình độ
tổ chức của một xã hội trong điều kiện của một MÔI TRƯỜNG SỐNG Bình Thường.
Để tìm một lối ra cho vấn đề, ngôn ngữ A nghĩ rằng các Đại Lộ phải được hình
thành từ mọi người, thông qua các dạng dư luận khác nhau và được tập trung điều
tiết bằng các Lý Lẽ Chung A. Từ mỗi Lý Lẽ Chung đó, mỗi đơn vị sẽ chọn ra một
Giám Đốc chịu trách nhiệm thực hiện, và một Thư Ký làm “môi giới kiểm tra” theo
các nội dung đã được thỏa thuận như thế nào đó. Nếu nói các Giám Đốc của các
đơn vị cơ sở là các Giám Đốc Hạng Nhất, thì phải có các Giám Đốc Hạng Hai, Hạng
Ba, v.v... và các Thư Ký tương ứng, để làm đại diện cho các bước tổ chức ở dạng
chung hơn, mà cuối cùng là một Giám Đốc và một Thư Ký đại diện chung cho mọi người
trong một cộng đồng, trên một hay mọi lĩnh vực công việc cụ thể nào đó, đã được
qui định tại nội dung của các Lý Lẽ Chung A của tất cả các đơn vị tổ chức.
Và điều quan trọng là, dù Giám Đốc ở Hạng nào, thì mọi thành viên tổ chức đều
có quyền kiểm tra tính trung thực và tính hiệu quả của các vị Giám Đốc thuộc hệ
liên quan đó, nếu xét về nguyên tắc mà nói. Nhưng do trong thực tế, không thể
đáp ứng cho mọi người cùng kiểm tra, nên con người ắt sẽ tìm ra một cách kiểm tra
hợp lý và hiệu quả nào đó, nhưng nếu cách đó thất bại thì nguyên tắc kiểm tra
bởi mọi người ắt phải dụng đến vậy. Ngoài ra, hình thức tổ chức trên chỉ có thể
phát huy hiệu quả khi con người dùng nó trong môi trường ngôn ngữ A, một môi
trường thuận lợi cho sự hợp tác thống nhất giữa mọi người với nhau trước các
lợi ích chung cũng như riêng.
Với ngôn ngữ A, thì mọi sự tranh luận mới có nhiều hi vọng thống nhất được dư
luận về cả hai mặt, nổi và ngầm. Từ kết quả này, con người sẽ lấy đó làm cơ sở
cho nhu cầu lý giải mọi mâu thuẫn đa dạng và phức tạp khác, được sản sinh vô
tận bởi xã hội, con người, sự sống, và sự phát triển.
Hay điều đó có nghĩa, khi trong một xã hội có bao nhiêu lĩnh vực công việc chuyên
môn, thì phải có bấy nhiêu vị Thư Ký và Giám Đốc tương ứng. Nhưng trong lĩnh
vực về quan hệ con người hay về sự sống Hạnh Phúc cho con người nói chung, thì
có lẽ, ngày nay chưa có ngành khoa học nào chịu trách nhiệm đào tạo các Giám
Đốc cho lĩnh vực này một cách hiệu quả bằng ngôn ngữ A chăng?
Vậy tóm lại, ngôn ngữ A cho rằng, trên Đại Lộ, vấn đề cần đặt ra là: hãy đem
đến cho mọi người hay mỗi người quyền được tranh luận công khai về quyền được
sống Hạnh Phúc của mỗi người, một cách công bằng và bình đẳng giữa mọi người
với nhau bằng ngôn ngữ A, thì mọi bế tắc thuộc về sự sống của con người và xã
hội sẽ có nhiều khả năng được khai thông tốt hơn. Điều đó có đúng như thế
không? Chúng ta hãy quay về với các chứng minh từ đầu để rồi cùng hiểu, cùng
suy luận và cùng nghiên cứu vận dụng xem, nó có đúng như yêu cầu thực tế đang
đặt ra cho sự sống của con người thời đại hay chăng?
13. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TẾ
Khi ngôn ngữ A cho rằng: “Sự sống con người và xã hội là một tổng thể của các
lĩnh vực chuyên ngành khoa học, chúng chịu trách nhiệm nghiên cứu vạch phương
hướng phát triển...”; thì trong đó, nhất định phải có một chuyên ngành khoa học
chịu trách nhiệm tổng kết và vạch phương hướng chung cho tất cả mọi hoạt động
sinh tồn đa dạng đó.
Hay thực tế có nghĩa là: nếu trong xã hội có bao nhiêu Giám Đốc của các ngành,
thì tất cả cuối cùng phải được qui về một Giám Đốc chuyên ngành nhất định, để chịu
trách nhiệm tổng hợp và vạch phương hướng phát triển chung cho tất cả các ngành
đó. Và dựa trên các nội dung đã được giới thiệu từ đầu tác phẩm này, chúng ta
có thể suy ra: “ngôn ngữ A” được xem như là một chuyên ngành khoa học, có khả
năng đào tạo các vị Giám Đốc tổng hợp chung kia được hiệu quả và chân thiện
nhất.
Mặt khác, nếu chúng ta ví dụ rằng, cuối cùng mọi cơ cấu tổ chức mới của một
cộng đồng hay của một xã hội đều có dạng cơ bản gần giống như các mô hình tổ chức
của các xã hội ngày nay, thì vậy điều khác nhau giữa một mô hình tổ chức mới
với một mô hình tổ chức cũ là gì?
Sự khác nhau cơ bản của vấn đề là một bên lấy sự tất yếu khách quan của tính
hiệu quả khoa học để làm phương tiện quản lý thành công cho mọi sự phát triển,
còn bên kia cuối cùng bao giờ cũng phải dựa vào các uy quyền và bạo lực để hi
vọng đạt được sự thành công trong một định hướng phát triển thống nhất cộng
đồng nào đó.
Hoặc nếu chúng ta xét vấn đề một cách triệt để hơn, thì có thể trên một góc độ
nào đó trong cả hai dạng tổ chức đều thấy có bạo lực xuất hiện; vậy, sự khác
nhau giữa chúng khi đó sẽ là, một bên giao quyền bạo lực về cho tất cả mọi
người, và bên kia chỉ giao nó cho một thiểu số người nhất định. Ví dụ như, chỉ
giao quyền đó cho “người thay chủ”, không giao cho “người chủ” (xem chương
trước).
Hoặc chúng ta có thể qui sự khác nhau trên là do, tất cả tùy vào khả năng của
mỗi mô hình tổ chức, có thể thống nhất mọi nguyện vọng và ý chí sinh tồn của
mọi thành viên trong xã hội theo cách nào: Tự Giác Tích Cực hay Tự Giác Tiêu
Cực (áp đặt bằng bạo lực).
Từ góc độ của ngôn ngữ A, chúng ta có thể cho rằng: bản chất của khoa học là
phi bạo lực, mà tất cả kết quả chỉ sẽ tùy thuộc vào khả năng có ý thức của con
người đối với tính tất yếu, có trong sự hợp lý và tự nhiên trong bản chất của
mỗi vấn đề. Ví dụ như vật chất, có cái khi đun nóng lên thì thành khí, hay
thành chất lỏng, hay thành chất cô đặc, chất rắn, v.v... Chúng đều không cần
đến “bạo lực” để tạo nên kết quả, mà chỉ là sự khám phá về các nguyên lý tác
động để biến đổi chúng theo một trình tự bắt buộc nào đó, để tạo ra một kết quả
hiển nhiên như thế nào đó.
Tương tự, trong vấn đề quan hệ con người với nhau cũng vậy. Nếu khoa học tìm ra
được một nguyên lý tác động phi bạo lực nào đó, thì phải chăng nó sẽ trùng với
lời giải cho vấn đề biến sự sống của con người sẽ tất yếu đổi thành lương
thiện, bình yên và Hạnh Phúc. Đó là một sự sống có ích cho xã hội loài người
cũng như đối với mỗi người, mà không cần thông qua các biện pháp bạo lực lạc hậu
và phi nhân tính, như con người vẫn hay quen áp dụng từ lâu nay.
Như vậy, nếu xét theo quan điểm nhận thức dưới góc độ của ngôn ngữ A, thì các
Giám Đốc Tổng Hợp chỉ có quyền góp ý để mọi người tham khảo và để mọi người
được quyền quyết định trên các phần trách nhiệm thuộc liên quan đến mỗi người.
Do vậy, đây là một cách quản lý kiểu mới đòi hỏi nhiều công phu, nhằm khuyến
khích mọi người cùng tham gia tích cực vào phần trách nhiệm chung của mình, sau
khi đã được trang bị các nhận thức cơ bản về vốn sống từ ngôn ngữ A. Và khi đó,
theo minh chứng, vai trò của ngôn ngữ A sẽ có nhiều khả năng được xã hội và mọi
người tín nhiệm cao.
Tóm lại, trong cách quản lý kiểu mới này, điều kiện đòi hỏi cơ bản nhất sẽ là:
con người cần có thời gian để “NGHE”, thì mọi sự thành công sẽ đến từ bước đầu
tiên này; vì sau nó sẽ là ĐỌC, HIỂU, THỰC HÀNH, v.v...!
Vì “NGHE” là một trong những cách quan hệ với nhau đơn giản nhất của con người;
nên khả năng quản lý của ngôn ngữ A đối với cộng đồng, nếu có, sẽ dễ dàng vượt
qua các phương thức quản lý khác, mà bản thân chúng thường đòi hỏi phải có kèm
theo nhiều điều kiện áp đặt bất công, chủ quan, phức tạp, tốn nhiều công sức
khác, v.v...
Hay vấn đề có thể hiểu: trong cơ chế tổ chức mới của mỗi cộng đồng, nó sẽ
đòi hỏi con người cần phải lập ra càng nhiều các “Diễn Đàn Đối Thoại Hai Chiều”
càng tốt, đến khi nào thấy đủ thì thôi! -"Hai Chiều", nôm na là mọi
người đều có quyền tự quyết trên việc của mình; “Một Chiều” là quyền đó sẽ phải
giao về cho thiểu số người quyết định thay cho tổng số người còn lại, trên mọi
vấn đề chung hay riêng của tổng số người còn lại đó.
Khi các diễn đàn được chia thành nhiều cấp, thì cấp chung hơn chủ yếu cũng sẽ
chỉ là nơi tạo điều kiện để cho các thông tin được trao đổi và thống nhất với
nhau một cách thuận lợi hơn; hay ngoài ra đó còn là nơi để giải quyết các vấn đề
có tính không ảnh hưởng trực tiếp nhiều đến các tổ chức hay các diễn đàn cơ sở,
mà nó cũng đã được các đơn vị cơ sở đồng ý chuyển giao trách nhiệm, theo một
nguyên tắc phân công như thế nào đó. Còn ngoài ra, các tổ chức cấp trên hay các
diễn đàn cấp trên không có quyền nào hơn để phủ quyết các vấn đề của các đơn vị
cấp cơ sở, khi chưa có được sự chấp thuận của các cấp này.
Trước tiên, các diễn đàn cần phải được tập trung cho các vấn đề phát triển sản
xuất và kinh tế được phát huy một cách tốt nhất, khi mà các vấn đề khác chưa
gây thành các bất ổn trực tiếp và cấp bách đến môi trường sống nói chung để đòi
hỏi các diễn đàn cần phải có biện pháp giải quyết ngay. Sau đó mới đến các vấn
đề về trách nhiệm trong quan hệ giữa mọi người trong một môi trường đơn vị hay trong
một xã hội với nhau, và sau đó đến các vấn đề về “sự sống và Hạnh Phúc” trên
con đường nâng cao, cho mọi người, v.v...
Trong phần phát họa trên, chúng ta thấy rằng từ một cơ chế này sang một cơ chế
“tự giác hơn”, thì sự chuyển biến không thể xảy ra bất ngờ đột ngột ngay một
lúc như một sự tiến công thắng lợi nào đó; mà tất cả cần phải có thời gian để
các thói quen quán tính của con người, có điều kiện nghiền ngẫm và đắn đo có
nên chọn hay không trước một Thay Đổi mang tính dân chủ hơn, khoa học hơn,
triệt để hơn, tuyệt đối hơn và cũng Hạnh Phúc cho mọi con người hơn.
Vì thế, trong suốt thời gian chuyển biến đó, vai trò giữ gìn trật tự của một cơ
chế tổ chức đang có, vẫn tiếp tục giữ vai trò hữu ích nhất định của nó, để theo
dõi và tạo điều kiện cho một khả năng sống mới, được phát triển theo một tất
yếu của qui luật phát triển xã hội hay của qui luật phát triển tự nhiên nói
chung trong thế giới loài người.
Khi hai cơ chế tổ chức cùng tạo điều kiện giúp nhau phát triển song song, để
đến một lúc có sự trùng lặp ở một phạm vi vận động nào đó; thì tính tất yếu
trong sự hợp lý của mỗi vấn đề, nó sẽ giúp con người hiểu ra và chọn ra một
trong hai khả năng trên cái nào có khả năng tạo sự phát triển tối ưu nhất, bằng
một tinh thần, tự giác và bình yên nhất, như mặt trời sẽ phải mọc từ hướng nào
và vào lúc nào vậy.
Và cuối cùng, xã hội sẽ còn lại một mô hình tổ chức thống nhất, chi phối hiệu
quả mọi vận động sinh tồn giữa con người với nhau một cách tự nhiên, tự giác,
bình đẳng và phi bạo lực. Mô hình tổ chức đó có tên ngôn ngữ là gì, có lẽ khi
đó con người mới tìm thấy câu trả lời cụ thể chăng.
14. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
Vào giữa thế kỷ thứ 19, Các Mác đã cho ra đời lý thuyết Cộng Sản. Sau đó Lê-nin
đã hoàn thiện hóa nó thêm một bước để sự ứng dụng của nó vào thực tiễn xã hội
được thành công hơn. Và như thế khái niệm học thuyết Mác-Lê được ra đời.
Theo học thuyết trên, thế giới xã hội loài người được phát triển theo qui luật
xã hội, nó tồn tại khách quan ngoài ý muốn con người. Và theo cách chứng minh của
các nhà lý luận mác xít ấy, thì chủ nghĩa tư bản là giai đoạn phát triển thứ tư
trước khi chuyển qua chủ nghĩa cộng sản, trong tiến trình năm giai đoạn của qui
luật phát triển xã hội loài người.
Và như vậy, nhìn chung lại người ta thấy rằng, ngoài các nước đang đi theo con
đường phát triển cộng sản chủ nghĩa, thì số còn lại đều tiến theo con đường tư
bản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay.
Xét từ góc độ ngôn ngữ A, trước khi có sự ra đời của học thuyết Mác-Lê, thì chủ
nghĩa tư bản đã được ra đời và phát triển một cách tự phát và ngẫu nhiên như
một hiển nhiên của sự sống vậy. Vì vậy, xét về mặt tích cực, thì nó có ưu điểm
là hợp với xu thế thời đại và cũng tức là hợp với bản năng tự nhiên của con
người hơn so với các chế độ xã hội có trước nó.
Tuy nhiên nhìn từ góc độ tiêu cực, thì nó, sau khi đã thắng được các khuynh
hướng tiêu cực do các thế lực phong kiến cũ tác động, lại đến phiên nó trở
thành như một nguy cơ mới đối với sự sống loài người nói chung. Nguy cơ cơ bản nhất
của nó mà mọi người vẫn thường rút ra thành một phê phán, đó là sự lớn mạnh độc
quyền của các “thế lực lợi nhuận”, được tiêu biểu thông qua các chủ tư bản hùng
mạnh và lũng đoạn.
Để cuối cùng trong các xã hội đó thường tạo ra những mâu thuẫn đối kháng, giữa
một bên là các nhà quyền lực tư bản và bên kia là những thế lực yếu kém hơn. Và
trước những đối kháng như vậy, người ta lại thấy phương tiện bạo lực được tiếp
tục sử dụng như một lời giải không thể thiếu, mỗi khi các biện pháp “ôn hòa” khác
đã thất bại.
Đặc điểm của xã hội tư bản là nền kinh tế công nghiệp được phát triển nhanh
chóng, đó đồng thời cũng là cái nôi sản sinh ra một tầng lớp lao động mới ngày
càng đông đảo hơn, tầng lớp lao động công nhân. Thực tế phát triển của các xã
hội công nghiệp tư bản vào những tháng năm của thế kỷ 18 cũng như sau này cho
thấy, những người lao động làm thuê, trong đó có các tầng lớp công nhân trên,
luôn là những đối tượng chịu bao bất công do giới chủ gây ra.
Đứng trước những bất công trên, Các Mác cho rằng giai cấp công nhân là lực
lượng đủ điều kiện nhất để mở đầu cho một phong trào cách mạng xã hội mới,
triệt để hơn, hiệu quả hơn và tốt đẹp hơn: phong trào cách mạng của giai cấp vô
sản đấu tranh xóa bỏ giai cấp tư bản, tiến lên xây dựng một thế giới đại đồng
cộng sản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong khi chờ đợi một chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn hình thành,
người ta vẫn có thể công nhận với nhau rằng: nhờ vào cơ chế cạnh tranh kinh tế
thị trường, thông qua sự chạy đua tích lũy lợi nhuận từ động cơ lợi ích cá nhân
hay cục bộ, mà xã hội tư bản đã tạo nên được một mức sống văn minh hiện đại
chưa từng thấy từ trước đến nay cho xã hội loài người.
Động cơ tạo sức bậc trên sẽ có thể là một yếu tố tham khảo không thể thiếu khi
con người muốn phát họa ra một mô hình xã hội mới với một chất lượng hoàn mỹ
hơn.
15. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Để tiến lên chủ nghĩa cộng sản, các nhà mác xít cho rằng phải xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội trước. Và để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, con
người phải trải qua giai đoạn quá độ từ giai đoạn chủ nghĩa tư bản sang giai
đoạn chủ nghĩa xã hội. Đến ngày nay, người ta vẫn chưa thể biết mỗi thời kỳ
chuyển tiếp như vậy phải cần bao nhiêu thời gian, có các động thái chuyển động
xã hội cụ thể gì, và trình độ nhận thức xã hội phải đạt đến đâu. Tuy nhiên,
người ta cũng có thể quyết chắc rằng, dù như thế nào thì cũng không được quay
lại với các chủ nghĩa tư bản lạc hậu của các thời kỳ đen tối nhất của nó.
Trong đấu tranh cách mạng ai nấy đều được học làu: “tất cả những ai đi ngược
lại qui luật phát triển xã hội, thì đều sớm muộn sẽ bị nghiền nát bởi bánh xe
lịch sử!”.
Trên thế giới, sự lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội đã có lúc đe dọa trực tiếp đến
sự tồn vong của chủ nghĩa tư bản thời đại. Tuy nhiên ngày nay, hệ thống lớn
mạnh xã hội chủ nghĩa ngày nào đã bị giảm sút đi rất nhiều so với trước. Điều
đó đã làm không ít người phải đắn đo: “bánh xe lịch sử đang nghiền nát chủ
nghĩa tư bản hay đang nghiền nát chủ nghĩa xã hội đây?”
Xét trên góc độ thực tế cuộc sống, người ta thấy rằng xã hội tư bản là một xã
hội chưa được chuẩn hóa về mặt lý thuyết, nên cơ cấu vận động của nó tất yếu
còn nhiều mặt tự phát, thiếu được tổ chức hóa một cách khoa học và văn minh. Vì
vậy, yêu cầu đổi mới một xã hội như của chủ nghĩa tư bản, thì nhất định không
phải là điều gì quá đáng.
Thế nhưng đổi mới xã hội theo cách nào, đó mới là điều quyết định cho sự thành
bại của một lý thuyết.
Học thuyết Mác-Lê nêu lời giải từ cơ sở của qui luật phát triển xã hội làm căn
bản. Vấn đề được bắt đầu từ những chứng minh về các phương thức sản xuất trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người. Cuối cùng, lời giải được rút ra dựa
trên nguyên tắc, khi nào cơ chế kinh tế của một xã hội thay đổi thì khi đó, con
đường đổi mới xã hội mới có thể hội đủ điều kiện đạt đến đích thành công.
Thế nhưng các nhà khai sinh ra chủ nghĩa cộng sản cũng đã không quên nhắc nhở
mọi người: học thuyết cộng sản không phải là một giáo điều, nó chỉ như kim chỉ
nam vạch đường cho con người tiếp tục tìm tòi và khám phá ra con đường dẫn đến
đích của thành công. Bởi ngoài các kết luận về qui luật vận động xã hội, học thuyết
còn chỉ ra các phương pháp luận để giúp con người nắm bắt và khám phá ra qui
luật vận động của thế giới xã hội loài người.
Nhận xét về quan điểm luận của chủ nghĩa cộng sản, ngôn ngữ A cho rằng đó là
một thành tựu khoa học về phương pháp luận để khám phá ra các qui luật vận động
của thế giới tồn tại. Tuy nhiên để vận dụng phương pháp luận trên, Các Mác mới
đặt trọng tâm khám phá ra nguyên nhân bề nổi của vấn đề xã hội loài người, còn
yếu tố tiềm ẩn thật của vấn đề thì phải chăng chưa được ông điểm đúng đích. Vì
lẽ đó mà ngày nay, khi loài người ứng dụng các công sức của ông vào thực tiễn
xã hội, thì nó thường tỏ ra rất hiệu quả ở giai đoạn đầu đấu tranh phá bỏ những
nguyên nhân gây bất công trực tiếp, để rồi vấn đề sau đó luôn là những ẩn số
phức tạp khi phải bắt tay vào xây dựng mô hình xã hội cộng sản chủ nghĩa trên
toàn thế giới.
Trước một thách thức khó khăn như trên, con người có thể sẽ suy diễn theo nhiều
hướng lý lẽ, kể cả nhiều biện pháp uy quyền kết hợp bất đắc dĩ; nhưng con người
sẽ không tránh được những thất bại nếu như tất cả vẫn chưa thể tập hợp được
lòng dân, như một đòi hỏi cơ bản để kiểm chứng tính chân lý của một lý thuyết.
Tập hợp được lòng người năm phần ắt sẽ không bằng mười phần vẹn mười. Huống chi
sự tập hợp chỉ mới ở mức một hai, phần còn lại thì hết đa phần là chỉ nhằm lợi
ích cá nhân hơn là cùng đồng tâm nhất trí theo một hướng chỉ đạo chung. Nên xã
hội làm sao không tránh được những nguy cơ ngoài tầm, trên chặng đường muốn xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Nhận thức trên có nhà cách mạng nào lại không hiểu và thuộc nằm lòng. Nhưng điều
đó như chỉ làm được tốt trong trước đây, trong đấu tranh với kẻ thù chung, còn
trong hòa bình thì điều đó phải chăng còn là một cản trở.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, kẻ thù chung của xã hội không còn là giặc ngoại
xâm hay những thế lực tư bản độc quyền nữa, mà là sự tư hữu hay công hữu, lợi
ích riêng hay chung trong nhận thức của mỗi con người.
Kẻ thù chung lúc này thật ra lại chính là kẻ thù riêng của mỗi con người. Nếu
đã là kẻ thù riêng, thì đối với người này có thể cho là không, đối với người
khác thì ngược lại. Đối với giặc ngoại xâm, để chống lại người ta có thể xử tử,
v.v...; nhưng với quan điểm sống của con người thì người ta không thể xử trí
đơn giản như thế, để rồi có thể cắm lên đó là cờ chiến thắng... Muốn làm được
việc ấy, sự thành công chỉ có thể đạt đến bằng con đường giáo dục. Đó là điều
kiện không thể khác được, trong mục đích xây dựng thành công các nhận thức tích
cực và tự giác trong các quan hệ giữa con người với nhau.
Tuy nhiên, ý nghĩa của học thuyết Mác-Lê không phải là một lý thuyết về giáo
dục, càng không phải là một công trình nghiên cứu về tâm lý con người và cũng
không phải là một khám phá thành công về những kết cấu tạo nên bản chất sinh
tồn của từng cá nhân mỗi con người nói riêng, của loài người nói cung, hay về
thế nào là sự sống hạnh phúc của mỗi con người nói riêng, của xã hội loài người
nói chung. Mục đích của lý thuyết Mác-Lê nặng về nguyên nhân kinh tế, về các cơ
cấu tổ chức nền kinh tế sản xuất của một mô hình xã hội, hay về phương thức sản
xuất của một xã hội, hơn là về bản chất phát triển tâm lý sống của con người
luôn phải biến đổi theo thời gian, môi trường và hoàn cảnh sinh tồn là như thế
nào.
Do đó, có thể nói bản thân lý thuyết của Mác không phải là một chìa khóa lý
giải đặc hiệu cho chính bài toán do chính nó đặt ra: bài toán về quan hệ sản
xuất hay bài toán về quan hệ giữa con người với con người nói chung.
Hay có thể nói, thực chất của học thuyết Mác-Lê là đặt ra bài toán về đạo lý
làm người, nhưng lại thiếu lời giải đặt trọng tâm chính xoáy vào nguồn gốc hình
thành tính thiện và ác trong quan hệ con người với nhau nói chung, nên thực tế
ứng dụng của nó như luôn còn bất cập về mặt lý luận trong quá trình ứng dụng
xây dựng chủ nghĩa cộng sản trong thực tiễn.
Phải chăng lời giải, là chỉ cần có một sự thay đổi về mô hình tổ chức kinh tế xã
hội, thì đạo đức con người tất yếu sẽ phải tích cực lên theo những áp đặt của
một cơ chế kinh tế xã hội đã thay đổi đó chăng? Thế nhưng, phải chăng thực tế
cũng đã cho thấy, sự thay đổi cơ chế vận động của một xã hội chỉ có thể thành
công, khi trước hết nó phải xây dựng thành công một nền tảng giá trị đạo đức
nhất định cho nhân tố con người làm tiền đề, sao cho thích ứng với điều kiện
đặt ra của một mô hình xã hội tương lai muốn vươn tới.
Hay như người ta vẫn thường nói: “phải có nhân tố quyết định con người thì mới
có ưu thế thành công khi bước vào thế kỳ 21". Và lý thuyết Mác-Lê chỉ như
là sự mở đầu cho một lý thuyết mạnh về giáo dục và đào tạo con người mới, sẽ
được ra đời sau, hơn là chính nó đã là một lời giải hoàn chỉnh cho vấn đề.
16. NGÔN NGỮ A
Ngôn ngữ A thực chất chỉ là sự vận dụng các phương pháp luận biện chứng theo
hướng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là vật chất, đó
là sự khác nhau cơ bản giữa ngôn ngữ A với ngôn ngữ ML (Mác-Lê).
Mục đích của ngôn ngữ ML là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa
cộng sản không có gì khác hơn là một xã hội mà nơi đó mọi người được phát triển
toàn diện về vật chất và tinh thần, đời sống hạnh phúc của con người được không
ngừng thỏa mãn và nâng cao. “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” là một chỉ
tiêu mơ ước, mà chủ nghĩa cộng sản muốn đề ra cho toàn nhân loại.
Ngoài ra các nhà lý luận mác xít cũng đã nêu vấn đề thế giới đại đồng, mà nơi
đó xã hội loài người sẽ không còn khái niệm bộ máy chính quyền như hiện nay, mà
tất cả đều phải được phát triển trên nền tảng của sự phát triển nhận thức tự
giác cao độ nơi mọi con người mới, thật văn minh, thật khoa học và thật hiện
đại.
Và đặc biệt quan trọng hơn cả, thói quen nhận thức tư hữu của con người cần phải
được đồng hóa dần với khái niệm công hữu, ranh giới quyết định sự phân chia
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản.
Nhìn và so sánh lại ngôn ngữ A với ngôn ngữ ML, thì mục đích cả hai như chỉ là
một. Chỉ khác là bên này chọn nhân tố con người hay vai trò nhận thức của con
người làm trọng tâm, trong toàn bộ quá trình triển khai và phát triển lý
thuyết. Trong khi đó bên kia, nhân tố tiền đề là phải thay đổi phương thức sản
xuất xã hội để làm cơ sở cho sự nghiệp xây dựng một trật tự thế giới mới.
Do ngôn ngữ A được xây dựng sau khi đã có những thành bại của ngôn ngữ ML trong
thực tiễn ứng dụng. Do đó, từ ngôn ngữ ML đến ngôn ngữ A, sẽ phải là một sự kế
thừa các thành tựu về mặt lý thuyết và cả về mặt thực tế xã hội; nó như một cơ
sở tiền đề quyết định hiển nhiên, vừa là ngẫu nhiên nhưng cũng vừa là tất yếu,
để cho sự thành công của ngôn ngữ A đến sau được trọn vẹn và tốt đẹp hơn.
Ngôn Ngữ A đặt vấn đề, khi con người có được nhận thức đúng thì con người sẽ có
chuyển biến tích cực trong Hành Động. Do đó yếu tố bạo lực áp đặt là hoàn toàn
có thể được loại trừ, nếu như con người có thể tạo ra được đầy đủ các nhận thức
đúng đắn ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ A chọn trọng tâm phát triển các nhận thức
tích cực của con người được tiến lên là chính, trên nguyên tắc điều đó phải phù
hợp với bản chất sinh tồn tự nhiên của MỖI CON NGƯỜI. Và kết quả của các quá
trình phát triển nhận thức ấy, sẽ gặp nhau ở một mô hình xã hội tốt nhất mà các
thế hệ con người hằng mong đợi.
Trong khi đó, ngôn ngữ ML vạch ra trước một mô hình xã hội mẫu và đặc trách
nhiệm cho con người phải đạt đến đích đó thành công. Điều đó sẽ dễ tạo nên một
phản ứng tâm lý trong sự sống, như một phản xạ tự nhiên của con người vậy. Vấn
đề giống như bánh ngon bị ép phải ăn, thì sẽ không ngon bằng hãy để mỗi người
phải tự tìm và khám phá ra, theo một hướng dẫn gợi ý đã được nghiên cứu cẩn
thận từ trước như thế nào đó, thì sự chọn lựa như thế sẽ đem đến cho con người
một giá trị thành công trọn vẹn hơn.
Người ta vẫn thường nói, chỉ ra một mục đích lý tưởng đã khó nhưng làm sao để
đạt được nó, thì vấn đề sẽ càng khó khăn gấp nhiều lần hơn. Hay như câu nói:
“mục tiêu một, biện pháp mười”, là một minh chứng cụ thể cho vấn đề.
Trong vấn đề con người và xã hội, cái khó không phải chỉ là các nhận thức đơn
thuần, mà chính là các thói quen tiềm ẩn trong tâm lý sống của từng con người,
và của môi trường sống xung quanh tác động. Và yếu tố khó khăn quyết định nhất
phải chăng là sự xác định, thế nào là bản chất tâm lý của mỗi con người trong
giai đoạn phát triển đi tìm chân lý hạnh phúc lý tưởng, của mỗi đời người nói riêng
hay của cả loài người nói chung. Và những vấn đề như thế, đều không phải là đối
tượng trọng tâm lý giải của ngôn ngữ ML.
Song trong ngôn ngữ ML, Lê-nin đã nghiên cứu ra một mô hình tổ chức xã hội
xuyên suốt theo hệ thống từ trung ương đến địa phương, nhằm đảm bảo tính nhất quán
trong ứng dụng một lý thuyết vào thực tế xã hội. Tuy nhiên, một tổ chức tốt mà
thiếu một nội dung tốt làm nền, thích ứng cho mỗi thời kỳ, thì tính hiệu quả
của nó sẽ bị giới hạn hay có khi thành phản tác dụng.
Vì sao trong đấu tranh xóa bỏ giai cấp hay đánh đuổi giặc ngoại xâm, thì ngôn
ngữ ML chứng tỏ sự ưu việt của mình. Nhưng trong giai đoạn tập trung xây dựng
chủ nghĩa cộng sản, thì nó trở nên như kém linh hoạt và không còn đạt được các
hiệu ứng cao như trước nữa?
Phải chăng vì trong giai đoạn đầu, nó hợp với lòng dân, hợp với cái tâm con
người, thì tính biện chứng khoa học trong phương pháp luận của Mác-Lê được phát
huy tác dụng. Nhưng trong giai đoạn sau, thì giữa tâm người và mục đích xây
dựng chủ nghĩa cộng sản là có trùng nhau không, điều đó đến nay phải chăng đang
còn là một ẩn số?
Bởi xã hội chúng ta ngày nay còn thiếu một thống kê về kết quả của các trưng
cầu dân ý đó, nên vấn đề trên như vẫn còn chưa được cập nhật hóa theo các chu
kỳ thời gian một cách thực tế khách quan và khoa học.
Tuy nhiên trong một chừng mực hợp lý nhất, tối ưu nhất có thể được, về các
thành tựu của các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay đã và đang đạt được, thì có
thể đó là nhờ tính chủ quan tích cực và năng động của các nhà lãnh đạo của mỗi
quốc gia, cũng như có thể do một số tác động khách quan và thuận lợi khác, để tạo
nên các thành quả như đang có trong các xã hội XHCN hiện nay; hơn là nhờ đa
phần vào tính ưu việt của một lý thuyết mang lại.
Ví như các nước xã hội tư bản chủ nghĩa cũng có thể đem lại cho đất nước mình
những thành công có khi còn to lớn hơn thế nữa mà cũng trong cùng một hoàn cảnh
năng động tương tự. Do đó, để lý giải tính hiệu quả của một lý thuyết, phải
chăng ngày nay điều đó đang vẫn còn là một thử thách của bài toán lý luận, về thế
nào là một qui luật phát triển tối ưu cho xã hội loài người.
Nếu xã hội đã có được một tổ chức tốt cộng với một ngôn ngữ A làm nền, thì vấn
đề ắt sẽ mang lại nhiều lợi ích thuận lợi. Khi đó, tổ chức không còn chọn người
kết nạp nữa, mà là khuyến khích mọi người cùng tham gia vào tổ chức. Vấn đề lúc
bấy giờ là tùy vào khả năng cung cấp và trung gian thông tin của tổ chức đó, để
nó có thể trở thành là một hạt nhân trung tâm đoàn kết mọi người trong xã hội
lại hay không. Điều đó sẽ là một yếu tố quyết định để nói lên giá trị của một
tổ chức, có thuộc tính phi bạo lực hay không để có thể đi đến một khả năng
thành công trọn vẹn hay không.
Nếu nội dung hoạt động của tổ chức là đúng, thì mọi người sẽ thu lợi thành
công. Nếu nó sai, thì mọi người sẽ phải cùng nhau chia sẻ trách nhiệm giải
quyết.
Do vấn đề trên có thể gây ảnh hưởng đến những bài toán lớn khác, nên cách hay
sẽ là cho thí điểm, kết hợp có các biện pháp kiểm tra hiệu quả, thì mười phần
hết mười là sẽ có lợi vậy. Cách làm như vậy thì rõ là, nếu trong một xã hội xã
hội chủ nghĩa thì sẽ có nhiều lợi thế hơn so với trong một xã hội tư bản chủ
nghĩa, ví tính tổ chức sẵn có trong cơ chế của xã hội đầu.
Thế nhưng trong ngôn ngữ ML, để cho một ngôn ngữ mới tích cực hơn ra đời, có
khi sẽ gặp khó khăn nhiều hơn so với điều kiện môi trường xã hội của ngôn ngữ
TB (tư bản), vì nguyên tắc độc tôn về ngôn ngữ của môi trường xã hội ML.
Tuy nhiên, làm người thì cần phải tin vào qui luật phát triển, nên mọi việc gì
hữu lý đều ắt sẽ phải có ngày đến với xã hội loài người vậy!
17. CHỦ NGHĨA KHÁCH QUAN
Ngày nay loài người đang tiến vào thế kỷ 21, với bao niềm vui và bao hi vọng,
đồng thời bên cạnh đó cùng có bao nhiêu vấn đề nan giải đang thách thức con
người, trong điều kiện môi trường cạnh tranh sinh tồn giữa thế giới loài người
với nhau đang ngày càng gai góc hơn.
Song khi con người nghĩ rằng, sự phát triển của xã hội loài người là luôn theo
một qui luật vận động khách quan và bất biến, thì đồng thời con người cũng tin
rằng một ngày kia loài người sẽ làm chủ được mọi sự vận động có qui luật đó của
xã hội loài người. Niềm tin đó sẽ là một nguồn cổ vũ tích cực cho sự sáng tạo
của con người trong quá trình xây dựng một tương lai xán lạn hơn.
Từ góc độ khoa học, khi nói đến khoa học là phải nghĩ đến khả năng làm việc
khách quan của mỗi con người muốn đến với nó. Nếu nói qui luật vận động xã hội
là một qui luật vận động khách quan và khoa học, thì mọi con người muốn đến với
nó để khám phá ra nó, đều sẽ phải là những con người có khả năng sống khách
quan một cách khoa học vậy.
Trong các khả năng khách quan, thì khả năng khách quan trong nhận thức về các quan
hệ giữa con người với nhau, là mang tính khó khăn và phức tạp nhất. Bởi trong
nhận thức quan hệ của mỗi người với mọi người, thì mọi khả năng quan hệ của
người đó đều trước tiên sẽ phải là một sự chủ quan.
Khi một phán quyết chủ quan được nêu ra cho một vấn đề, thì nó sẽ trở thành khách
quan nếu nó phù hợp với qui luật phát triển xã hội. Còn ngược lại, thì nó sẽ là
một quan điểm chủ quan sai lầm mà thôi.
Muốn phân biệt một nhận thức quan hệ là khách quan hay chủ quan, thì con người phải
có nhận thức về qui luật phát triển xã hội để làm điểm tựa so sánh. Nhưng muốn
có nhận thức về qui luật phát triển xã hội, thì con người phải có khả năng nhận
thức khách quan trước. Nhưng nếu chưa có qui luật phát triển xã hội, thì làm
sao phân biệt và kiểm chứng được khả năng nhận thức nào là chủ quan hay khách
quan, v.v... Như vậy, sự lẩn quẩn trên đây phải chăng là bài toán tồn đọng cơ
bản nhất, mà nhân loại đang còn vấp phải trong suốt 20 thế kỷ qua?
Hay nói cách khác, đó là bài toán về khả năng tự biết mình của các thế hệ loài
người văn minh trong suốt 20 thế kỷ qua.
“Tự biết mình” ở đây có nghĩa là, để mỗi người có đủ điều kiện và khả năng tự
hoàn thiện mình một cách tích cực nhất và sống đời hạnh phúc nhất. Một mức sống
được xem là tích cực nhất và hạnh phúc nhất, là một mức sống mà mỗi người không
phải chỉ giành được sự sống thành công cho riêng mình, mà còn phải đem lại sự
sống thành công và hạnh phúc cho mọi người. Điều đó thật sự là một bài toán
thách thức đối với tất cả mọi người, cũng như đối với các thế hệ tương lai.
Như vậy, “tự biết mình” có nghĩa là mỗi người phải ý thức được các hay, dở,
thiện và ác của riêng mình, để từ đó mỗi người phải không ngừng tiến lên tự
hoàn thiện hóa mình theo một qui ước lý tưởng đã được qui định như thế nào đó,
để nhằm xóa mất dần các thói quen tiêu cực có thể gây hại cho mình và cho môi
trường sống xung quanh một cách có ý thức hay không ý thức.
Để mỗi người phải tự hoàn thiện mình như trên, thì sự cố gắng đó sẽ dễ bị biến
thành nản chí và bỏ cuộc. Nhưng nếu con người có được một môi trường sống tích
cực xung quanh trợ chí, thì phải chăng mọi người ai cũng sẽ dễ thấy rằng, trách
nhiệm trên sẽ không khó lắm để hoàn thành.
Để xây dựng một môi trường sống tích cực như vậy, theo ngôn ngữ A, trước mắt
phải chăng nó sẽ phải là: xây dựng một môi trường xã hội phát triển theo CHỦ
NGHĨA KHÁCH QUAN.
Chủ Nghĩa Khách Quan là chủ nghĩa đặt mục đích ưu tiên xây dựng cách sống và
làm việc khách quan cho mọi con người là trên hết. Bởi vì nếu bản chất vận động
của xã hội loài người là khách quan theo qui luật, vậy thì đạo đức quan hệ giữa
con người với nhau trước tiên sẽ cũng phải thuộc về ĐẠO ĐỨC KHÁCH QUAN. Có
khách quan thì con người mới không bị lầm lẫn giữa sai và đúng, giữa ác và
thiện, giữa chủ quan và khách quan, giữa bạo lực và phi bạo lực, giữa phi dân chủ
và dân chủ, giữa bất công và công bằng, v.v...
Nhân cách khách quan cũng là điều kiện tiên quyết để xã hội loài người phát
triển các ngành công nghiệp tiên tiến, và đồng thời cũng là tiền đề để tạo nên
một môi trường sống lý tưởng cho những con người muốn sống chính thiện vậy. Có
khách quan, thì con người mới dễ có khả năng sáng suốt và lý giải minh bạch mọi
bài toán khó trong môi trường sống văn minh hiện đại ngày nay. Hay có khách
quan, thì con đường dẫn đến đích của thế giới đại đồng mới sáng tỏ và có cơ sở
để trở thành hiện thực vậy.
Theo Ngôn Ngữ A, cơ sở để xây dựng thành công CHỦ NGHĨA KHÁCH QUAN cho xã hội
loài người, là các quan hệ con người với nhau phải bắt đầu từ Ngôn Ngữ A như đã
giới thiệu.
Xây dựng thành công chủ nghĩa Khách Quan, thì có thể xem như xã hội loài người
đã xây dựng được một viên gạch thành công căn bản, làm nền cho mọi viên gạch
thành công khác được tiếp nối xây dựng nên.
Có một câu nói: “để có một xã hội Khách Quan thì cần phải có những CON NGƯỜI
KHÁCH QUAN”. Để có những con người khách quan trong quan hệ con người với nhau,
thì theo Ngôn Ngữ A con người phải được rèn luyện theo thời gian và phải theo
một ngôn ngữ khách quan và khoa học nhất định, ngoài ra không thể chỉ bằng ý
chí không là đủ.
Nói cách khác, “sự khách quan” bản thân nó cũng là một thứ khả năng đặc biệt mà
mỗi con người khi đã rèn luyện được nó, thì cũng không khác gì đã tự trang bị
cho mình một thứ bằng cấp trong quan hệ sự sống, hay như một thứ bằng cấp để
làm người biết sống trung thực, lương thiện và tích cực cho đời vậy.
Chúng ta có thể suy ra:
CON NGƯỜI MỚI = LƯƠNG TÂM + KIẾN THỨC
KHOA HỌC
+ KHẢ NĂNG SỐNG KHÁCH QUAN
Trong một xã hội, khi mọi người đều có khả năng sống khách quan trong quan hệ con
người với nhau, thì phải chăng sự sống và qui luật phát triển xã hội sẽ trở nên
dễ hiểu, dễ đi đến thống nhất để cùng nhau thực hiện chúng đến thành công cuối
cùng.
“SỰ KHÁCH QUAN”, đó là một bài toán khó khăn cho mọi con người, cho mọi thời
đại.
Lý giải được bài toán “Khách Quan” thì loài người sẽ lý giải được bài toán về
tương lai phát triển hay bài toán về khả năng sống Hạnh Phúc của thế giới loài
người đương đại vậy.
HẾT TẬP III (phần 7 và phần 8 )
HẾT
Tác giả : HOÀNG VĨNH SƯU
MỤC LỤC
PHẦN I: KHOA HỌC TINH THẦN
1. ĐÀO TẠO CON NGƯỜI
2. NGÀNH KHOA HỌC TINH THẦN
3. CÁCH SỐNG
4. MỨC SỐNG
5. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VÀ TÌM LỜI GIẢI
PHẦN II: GIÁO DỤC TINH THẦN
1. MÔN HỌC TỔNG HỢP
2. CƠ CHẾ TỒN TẠI CỦA TINH THẦN
3. TRUNG TÂM VÔ THỨC
4. NỘI DUNG TƯ DUY
5. SỰ SAI LẦM NGUYÊN THỦY
6. HẠNH PHÚC LÀ GÌ?
7. TRÁI TIM SỰ SỐNG
8. CƠ SỞ XÂY DỰNG LẼ PHẢI
9. CỬA VÀO TÂM A
10. CON ĐƯỜNG TƯƠNG LAI
PHẦN III: LẼ PHẢI T
1. LẼ PHẢI T
2. LẼ PHẢI V
3. CON ĐƯỜNG TỪ V SANG T
4. ĐƯỜNG ĐƠN 13
5. MÔ HÌNH ĐƠN 13
6. LẼ PHẢI HẠNH PHÚC
7. MÔI TRƯỜNG HẠNH PHÚC V
8. ĐẠO ĐỨC TRANH LUẬN
9. ĐƯỜNG PHỨC 12
10. VẤN ĐỀ CỦA PHỨC 12
PHẦN IV: NGHỀ SỐNG
1. ĐI CHỢ
2. CỬA HÀNG BÁCH HÓA
3. NỘI DUNG SỐNG
4. BÀI TOÁN QUAN HỆ
5. ĐẠO ĐỨC HẠNH PHÚC
6. LÝ LẼ RIÊNG VÀ CHUNG
7. MÔ HÌNH LÝ LẼ CHUNG HẠNH PHÚC
8. CON ĐƯỜNG Ý KIẾN TOÀN DÂN
9. NGÔN NGỮ A NHẬP MÔN
10. PHƯƠNG THỨC CỦA NGÔN NGỮ A.
PHẦN V: MÔI TRƯỜNG NGÔN NGỮ A
1. SỰ SỐNG VÀ TỔ CHỨC
2. TỔ CHỨC TỐI ƯU
3. NHỮNG LÝ LẼ THÔNG DỤNG
4. TRANH LUẬN Ý NGHĨA MỤC ĐÍCH SỰ SỐNG
5. NHỮNG HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG TRANH LUẬN
6.BỆNH GHIỀN CÁCH SỐNG CỦA NGÔN NGỮ B
7. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỜI THƯỜNG
8. KINH NGHIỆM DÂN GIAN
9. RANH GIỚI THAY ĐỔI CÁCH SỐNG
10. NHỮNG ĐỔI THAY TRONG CUỘC SỐNG
PHẦN VI: QUI LUẬT TIẾN HÓA
1. CON NGƯỜI LÀ AI?
2. ĐIỀU CHỈNH QUAN ĐIỂM SỐNG
3. VẤN ĐỀ CỦA THỜI ĐẠI
4. Ý NGHĨA CỦA SỰ SỐNG
5. LUẬT CỦA SÂN CHƠI MỚI
6. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG QUYỀN LỰC
7. HÀNH TRANG NGÔN NGỮ A CHO CÁ NHÂN
8. GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ THỰC TẾ
9. NHỮNG VẤN ĐỀ GẦN VÀ XA
10. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC
PHẦN VII: TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN
1. TÓM TẮT NGÔN NGỮ A
2. GIA NHẬP NGÔN NGỮ A
3. THIỆN VÀ ÁC
4. ĐIỀU HÒA ÂM DƯƠNG
5. SỰ CHUYỂN TIẾP NGÔN NGỮ
6. QUAN ĐIỂM LUẬN
7. QUAN ĐIỂM VỀ MỘT CƠ CHẾ XÃ HỘI
8. MỘT VÀI NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN
PHẦN VIII: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG
1. SỰ NGHỊCH LÝ BAN ĐẦU
2. QUÂN TỬ VÀ TIỂU NHÂN
3. TÍNH CHẤT CỦA SỰ THAY ĐỔI
4. SỰ THAY ĐỔI TỪ TỔ CHỨC
5. CON NGƯỜI ĐANG SỐNG NHƯ THẾ NÀO
6. NỘI DUNG THÂM NHẬP BẰNG TIỂU LỘ
7. CÁC BÀI HỌC CƠ BẢN TRONG TIỂU LỘ
8. CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA TIỂU LỘ
9. THỰC TẾ TỔ CHỨC VÀ NỘI DUNG SINH HOẠT
10. ĐÀO TẠO 1" CHO ĐƠN 13
11. ĐÀO TẠO 0" THEO PHỨC 12
12. CON ĐƯỜNG ĐẠI LỘ
13. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TẾ
14. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
15. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
16. NGÔN NGỮ A
17. CHỦ NGHĨA KHÁCH QUAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét